22 tháng 3, 2012

MẤY NHẬN ĐỊNH LỚN VỀ QUAN HỆ TRUNG - XÔ, TRUNG – NGA TỪ NGÀY THÀNH LẬP NƯỚC CHNDTH TỚI NĂM 2011

                                                                         Dương Danh Dy

Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) ra đời ngày 1/10/1949, nhưng ĐCS Trung Quốc đã thành lập trước đó khá lâu (ngày 1/7/1921) và từ đó đến khi thành lập nước CHNDTH, ĐCSTQ đã có quan hệ khá chặt chẽ với ĐCS Liên Xô, vì vậy khi hai bên thiết lập quan hệ nhà nước họ đã có sự “hiểu biết về nhau” khá sâu sắc và vận dụng khá sắc sảo những hiểu biết đó vào đường lối chính sách đối với nhau. Chính vì vậy nói tới quan hệ Trung Xô không thể không đề cập tới quan hệ giữa hai đảng Cộng sản Trung Xô từ năm 1921 đến năm 1949.
Quan hệ giữa hai đảng Cộng sản Trung Quốc và Liên Xô từ tháng 7 năm 1921 đến tháng 10 năm 1949
- Từ năm 1921 đến tháng năm 1941
 Từ năm 1921 đến tháng 8 năm 1927 là thời kỳ Ban lãnh đạo mấy khóa của ĐCSTQ (qua Quốc tế cộng sản và mấy người trong ban lãnh đạo vốn hoạt động ở Liên Xô về nước như Lý Lập Tam, Trương Quốc Đào… hoặc ở trong nước như Trần Độc Tú…) chịu ảnh hưởng của ĐCSLX về mặt tổ chức và đường lối. Họ không thấy Trung Quốc là một nước nông nghiệp, nông dân rất đông bị áp bức bóc lột nặng nề mà chỉ lo tập trung xây dựng và phát triển lực lượng ở những nơi tập trung công nhân, mọi hoạt động hầu như chỉ diễn ra tại các thành phố và vùng mỏ… có nhiều công nhân. Những cuộc bãi công, tuần hành lớn của công nhân dưới sự lãnh đạo và tổ chức của ĐCSTQ trong sáu, bẩy năm đầu sau khi thành lập đều xẩy ra tại các thành phố lớn có nhiều công nhân thời đó như Thượng Hải, Vũ Hán, Quảng Châu… và đều bị chính quyền Quốc dân đảng đàn áp, thất bại (điển hình là cuộc bãi công tháng 2 năm 1922 và cuộc nội chiến cách mạng lần thứ nhất (1927).
Từ những thực tế trên, Mao Trạch Đông qua “khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam” (tháng 1/1927) bước đầu thấy được vai trò và sức mạnh của nông dân nhất là bần nông, đã chủ trương vứt bỏ kế hoạch hoạt động, tấn công vào thành thị là chủ yếu, chuyển mọi đấu tranh với chính quyền Quốc Dân đảng về vùng nông thôn rộng lớn, tiến hành cách mạng ruộng đất, thành lập căn cứ địa ở nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị (việc xây dựng căn cứ Tỉnh Cương Sơn và thành lập quân đội Trung Quốc (1/8/1927) là sự kiện nổi bật).
Từ năm 1927 đến năm 1941 Do sai lầm về nhiều mặt (đường lối, tổ chức, phe phái…) Hồng quân Trung Quốc sau 5 lần chống phá vây quét của Quốc Dân đảng buộc phải tiến hành trường chinh, đến hội nghị Tuân Nghĩa (1935) mới xác lập được vai trò lãnh đạo của Mao Trạch Đông, rồi thành lập khu giải phóng Thiểm Cam Ninh (10/1935), tư tưởng Mao Trạch Đông được ĐCSTQ xác định là “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin áp dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Trung Quốc”(năm 1941).Những người trong ban lãnh đạo thân Liên Xô lần lượt bị gạt khỏi ban lãnh đạo cao nhất hoặc không còn thực quyền.
Đến đây có thể nói ĐCSTQ về cơ bản đã thoát khỏi ảnh hưởng của ĐCSLX về nhiều mặt, trở thành một chính đảng độc lập tự chủ.
Sau khi có chỗ đứng tại Diên An, ĐCSTQ đã tìm cách liên lạc với Mỹ. Ngay từ tháng 6 năm 1936 nhà báo Mỹ Etga Snow đã được mời tới thăm Diên An. Tiếp đó trong năm 1942 phái đoàn Mỹ tại Trung Quốc mà người đứng đầu là trung tướng Joseph Stiwell đã 3 lần cử đại biểu đến tiếp xúc vớí Chu Ân Lai khi ông này tham gia đàm phán Quốc Cộng tại Trùng Khánh. Rồi tháng 7 và tháng 8 phái đoàn Mỹ tại Trung Quốc đã cử hai tổ quan sát đến Diên An, được Trung Quốc đón tiếp rất trọng thị. ĐCSTQ muốn được sự giúp đỡ về kinh tế của Mỹ nhưng phía Mỹ đã không đáp ứng vì cho rằng ĐCSTQ là “tay sai của ĐCSLX” hay “cũng là một duộc” như ĐCSLX.
Mỹ không giúp TQ xây dựng kinh tế là một nguyên nhân quan trọng buộc Trung Quốc sau này phải “nhất biên đảo” với Liên Xô.
- Từ năm 1941 đến 1949. ĐCS TQ đã xây dựng và phát triển mạnh mẽ lực lượng tại vùng căn cứ biên khu Thiểm Cam Ninh và vùng thống trị của Quốc Dân đảng, có vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh chống Nhật xâm lược (ĐCSTQ chủ động trong hợp tác Quốc Cộng chống Nhật cho đến năm 1945). Sau đó nội chiến bùng nổ năm 1946, cuối cùng ĐCSTQ giành thắng lợi, nước CHNDTH ra đời vào ngày 1/10/2011.
Mấy nhận xét:
- Trong gần 30 năm quan hệ, ĐCSTQ đã từng bước nhận thức được bộ mặt thật “Đảng cha của ĐCSLX” họ đã cương quyết đấu tranh, để cuối cùng thoát khỏi sự “khống chế” đó.               
- Qua việc thấy Liên Xô xử lý quan hệ với Quốc Dân đảng (không thực hiện ý kiến của Lê nin xóa bỏ các hiệp định bất bình đẳng mà Nga hoàng đã ký với một số nước (trong đó có vùng lãnh thổ và lãnh hải mà Nga hoàng đã chiếm của Trung Quốc), buộc chính quyền Tưởng Giới Thạch phải từ bỏ Ngoại Mông..) cho nên trước khi “nhất biên đảo” không phải là Ban lãnh đạo ĐCSTQ không thấy được ý đồ “xô vanh nước lớn XHCN” của ban lãnh đạo Liên Xô.
- Với việc Liên Xô tháo dỡ một số nhà máy hiện đại của Nhật Bản tại Đông Bắc mang về Liên Xô sau khi Hồng Quân Liên Xô giải phóng vùng này (dù Liên Xô có để lại một số lớn vũ khí cho quân đội của ĐCSTQ) cũng như việc sau khi Quân Giải phóng Trung Quốc vượt sông Trường Giang giải phóng Nam Kinh thì đại sứ Liên Xô đã theo chính quyền Quốc Dân đảng di tản về Quảng Châu (trong khi đại sứ Mỹ ở lại với chính quyền CS) Ban lãnh đạo ĐCSTQ càng hiểu rõ hơn ĐCSLX và nhà nước Xô Viết Nga là như thế nào. Chính vì vậy ngay từ khi mới thành lập, nhà nước Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ đã có những chủ trương, sách lược “rất khôn ngoan, rất thực chất” với ĐCSLX và nhà nước Liên Xô chứ không phải là “thắm tình đoàn kết vô sản quốc tế” như các cơ quan truyền thông của họ đã rasức cổ vũ trong thời kỳ này. Và phía Liên Xô cũng vậy, họ không hề “viện trợ, giúp đỡ vô tư” cho Trung Quốc, “Con gấu bắc cực” (xin mạn phép nói lại “câu nói” ám chỉ Liên Xô thời đó) cũng không phải tay vừa…. Ngay từ đầu, hai bên đều tỏ ra khá hiểu biết lẫn nhau. (một ví dụ trong bài “vì sao năm 1949, TQ tạm thời chưa động đến Hồng Kông”- tờ “Hoàn Cầu thời báo” ngày 21/10/2008 cho biết: “...quyết sách chiến lược tạm thời duy trì hiện trạng không đổi” dùng việc giữ Hồng Kông làm chiếc cầu nối giữa TQ với cộng đồng quốc tế nhất là với thế giới tư bản phương Tây còn là “một biện pháp cảnh giác và đề phòng cần thiết đối với Liên Xô, người luôn giữ thái độ “nước lớn" “đảng lớn” “chủ nghĩa bá quyền” mà ban lãnh đạo TQ đã thấy từ sớm” (Vào đầu những năm 60 khi LX “xé hợp đồng rút chuyên gia” Hồng Kông đã trở thành con đường thông thương, làm ăn quan sát móc nối vô cùng quan trọng của TQ với các nước phương Tây cho thấy nhận định trên khá đúng)
Quan hệ Trung Xô từ ngày 1/10/1949 đến nay. Có thể chia ra làm 4 giai đoạn chính.
Từ ngày thành lập nước CHNDTH đến cuối những năm 50. Mấy năm đầu của thời kỳ này được coi là “tuần trăng mật” trong quan hệ TrungXô và mặc dù "không cam chịu” nhưng vì “lợi ích để có được sự giúp đỡ về xây dựng kinh tế” nên ban lãnh đạo Bắc Kinh đã tạm thời “nhún nhường” Liên Xô về mặt chính trị. Tuy vậy chỉ sau khi Trung Quốc đã xuất quân “kháng Mỹ viện Triều” (tháng 6/1950) đẩy lùi quân đội Mỹ và Nam Hàn về vĩ tuyến 38, mãi đến năm 1953 Liên Xô mới đồng ý viện trợ cho Trung Quốc 156 công trình lớn trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1953 - 1958.(Mao Trạch Đông nói đại ý: cho đến khi thành lập nước CHNDTH, Stalin vẫn không tin chúng ta, nói chúng ta là củ cải đường-vỏ đỏ ruột trắng, chỉ sau khi viện Triều đánh Mỹ (6/1950) mới thực lòng viện trợ cho chúng ta). Ngoài ra, cần thấy thêm, lúc này Stalin người luôn nghi ngờ, cảnh giác với Trung Quốc vừa chết, ban lãnh đạo mới của Liên Xô (Khrơrutxov) cần tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc để giữ vai trò lãnh đạo phe XHCN. Có hai điểm xin lưu ý:
- Có giả thuyết nói rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên là do LX xúi giục Bắc TT gây ra, nhằm đẩy Trung Mỹ đối kháng lâu dài, không thể hòa hoãn liên minh với nhau, buộc TQ ngả hẳn về phía LX (một ví dụ minh họa: vì sao khi Hội đồng bảo an bỏ phiếu về việc cử quân đội LHQ sang tham chiến tại Triều Tiên, đại biểu LX lại không tham dự để phủ quyết v.v...).
- Tác dụng 156 công trình LX viện trợ cho TQ là rất to lớn, ngày nay TQ ít nói tới và nhiều nhà nghiên cứu cũng chưa chú ý đầy đủ. Phải nói đây là những công trình giúp TQ trở thành một nước có nền kinh tế hoàn chỉnh, có công nghiệp luyện kim, công nghiệp chế tạo cơ khí lớn và chính xác, công nghiệp điện tử v.v... khiến TQ lần đầu tiên sản xuất được ô tô, máy kéo, máy bay, máy phát điện cỡ lớn... và là cơ sở cho chế tạo bom A, bom H và các ngành sản xuất tinh vi, hiện đại sau này. Tuy vậy Trung Quốc phải trả toàn bộ giá trị các công trình trên (khoảng 5,9 tỷ NDT) bằng hàng hóa trong nhiều năm.
Do những mâu thuẫn tiềm ẩn về lợi ích giữa hai nước Trung Xô tạm thời được kìm nén trong “tuần trăng mật” đã dần dần bộc lộ theo sự lớn mạnh của TQ về các mặt, “xung đột” Trung Xô đến đầu những năm 60 đã công khai bùng nổ.
Thập kỷ 60. Bất đồng Trung Xô đầu tiên được công khai thể hiện trên mặt lý luận (bài “Chủ nghĩa Lênin muôn năm” của Trung Quốc viết nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của Lênin tháng 1/1960). Cuộc “tranh luận “ngày càng gay gắt và theo thời gian, hai bên đã chuyển bất đồng này thành những vấn đề kinh tế, chính trị, xung đột biên giới… như “xé hợp đồng rút chuyên gia”, biểu tình phản đối lẫn nhau, có nơi có lúc đã xẩy ra đổ máu. Tháng 2/1969 xẩy ra xung đột lớn tại vùng biên giới có tranh chấp (TQ gọi là vùng đảo Trân Bảo, LX gọi là Damaski) bất đồng Trung Xô lên tới cao điểm. Tháng 4/1969, ĐH9 ĐCSTQ ghi chống bá quyền LX vào điều lệ Đảng.
Hai bên vẫn duy trì quan hệ ngoại giao và thương mại tuy nhiên ở mức rất thấp.
(Trong cuốn “Mấy vấn đề lớn trong quan hệ Trung Xô” xuất bản gần đây có dẫn ý Đặng Tiểu Bình cho rằng những cuộc tranh luận Trung Xô trong thời gian này là vô bổ. Một vài học giả TQ cho người viết biết: đảng toàn dân của Khơrutxov chẳng khác gì thuyết “ba đại diện” của TQ và bây giờ nhìn lại thấy thuyết “cạnh tranh hòa bình”, “thi đua hòa bình”… chẳng có gì sai. Xin nêu để tham khảo)
Trung Quốc lúc này giương ngọn cờ chống xét lại Liên Xô và chống đế quốc Mỹ (phản đế tất phản tu) để tập hợp lực lượng.
Thập kỷ 70. Trung Quốc bình thường hóa với Mỹ, vẫn chống Xô đặc biệt trong vấn đề ủng hộ Cuba đưa quân vào Ăngola và giúp Việt Nam “xâm chiếm” Cămpuchia.
Thập kỷ 80. Trung Quốc giữ thái độ “trung lập” trước những diễn biến tại Liên Xô (Goocbachov lên cầm quyền, Yelsin thắng cử tại Nga và lập chính quyền mới…) nhưng trong nội bộ họ nghiên cứu tình hình Liên Xô khá kỹ, đã tranh thủ bình thường hóa quan hệ với Liên Xô (tháng 5/1989).
Từ khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay (2011) Sau khi Liên Xô tan rã, ĐCSLX mất quyền lãnh đạo, TQ chủ trương “giấu mình chờ thời”, “quyết không đi đầu” không muốn và không “dại gì” làm người “thay thế” vai trò của Liên Xô trong quan hệ với các nước XHCN còn lại cũng như với các ĐCS và CN khác cũng như “đứng ra” làm người “đối đầu về mọi mặt” với Mỹ như Liên Xô trước đây.
Có ba hiện tượng đáng chú ý trong quan hệ Trung Nga thời gian này:
- Theo sáng kiến của Bắc Kinh, tháng 5 năm 1996, “Nhóm Thượng Hải 5” gồm 5 nước: Trung Quốc, Nga, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan ra đời, đến năm 2001 kết nạp thêm Uzbekistan và lấy tên là “Tổ chức hợp tác Thượng Hải” lúc đầu nhằm giải quyết vấn đề biên giới giữa Trung Quốc với Nga và mấy nước thuộc Liên Xô cũ (sau này mới mở rộng sang các lĩnh vực khác như chống ma túy, khủng bố, hợp tác kinh tế và kết nạp thêm mấy nước như Ấn Độ, Pakistan, Tran và Mông cổ.. làm quan sát viên). Tháng 7 năm 2001 hai nước Trung Nga ký “Hiệp ước hữu nghị láng giềng thân thiện” năm 2004 ký hiệp định bổ sung, đến đó đã hoạch định xong toàn bộ hơn 4300 km đường biên giới trên bộ của hai nước một cách bình đẳng (trong cuộc xung đột biên giới năm 1965 và những cuộc đàm phán biên giới kéo dài giữa hai nước nhiều năm sau đó, phía Liên Xô đã đưa ra những đòi hỏi vô cùng “ngang ngược về lãnh thổ” ví dụ như đòi biên giới Liên Xô ở tận bên bờ phía Trung Quốc, nay phía Nga phải từ bỏ “yêu sách” đó). Có thể nói tới nay hơn 5000 km biên giới bộ phía bắc của Trung Quốc với Nga và mấy nước thuộc SNG nói trên đã hoạch định xong và về cơ bản tình hình ở đây là ổn định.
- Trung Quốc từng bước tiến vào khai thác thị trường năng lượng tại mấy nước SNG và Nga (năm 2008 mỗi năm có 5 triệu tấn dầu mỏ Nga quá cảnh Kazakhstan vận chuyển tới Trung Quốc và sẽ còn tăng thêm).
- Nhìn chung trong giai đoạn này Trung Quốc đã lợi dụng tương đối tốt thời cơ nước Nga còn “yếu tương đối” để thu phần có lợi trong quan hệ song phương về cho mình.
Đã đề cập tới quan hệ Trung Nga không thể không nói vài lời về quan hệ Trung- Mỹ, và Nga- Mỹ( hoặc mối quan hệ giữa 3 nước Mỹ Nga Trung)
Từ những năm 60 của thế kỷ trước tới nay, mối quan hệ giữa 3 nước lớn này luôn giữ vai trò chủ đạo trong quan hệ quốc tế, nhưng tùy theo sức mạnh (khó khăn) của mỗi nước mà có lúc cặp quan hệ này nổi lên, đối tượng kia có vai trò quan trọng hơn, được 2 đối tượng khác coi trọng hoặc “liên hiệp tạm thời với nhau” để đối phó, như Nga Trung với Mỹ trong thập kỷ 50, hoặc Mỹ Trung với Liên Xô trong thập kỷ 70.
Hiện nay Trung Nga gặp nhau trên vấn đề lớn “đối phó” với siêu cường duy nhất Mỹ nhưng họ không phải là “liên minh”, càng không phải là “đồng chí”. 
Kết luận bước đầu
1. Quan hệ Trung Xô, Trung Nga là quan hệ giữa hai nước láng giềng lớn “hiểu biết lẫn nhau” khá sâu, nói một cách bất lịch sự nhưng đúng bản chất thì đó là mối quan hệ “kẻ cắp bà già gặp nhau”. Họ chơi với nhau nhưng không bao giờ từ bỏ ý định vượt lên nhau, loại trừ nhau. Không loại bỏ khả năng Trung Nga sẽ xuất hiện mâu thuẫn mới, đối kháng mới khi họ khác biệt và không thể dung hòa lợi ích.
Trong tình hình hiện nay vẫn cần tranh thủ Nga, nhưng không nên đặt hy vọng quá nhiều khi không có “lợi ích” lớn hơn lợi ích Trung Quốc cho họ.
2. Trừ thời kỳ đầu thành lập nước, Trung Quốc ở thế tương đối yếu và bị động ra, càng về sau, Trung Quốc đã từng bước giành thế chủ động (như chủ động đưa bất đồng ra công khai, gây chuyện ở biên giới, bình thường hóa quan hệ, thành lập Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, giải quyết biên giới,…)
3. Trong quan hệ với Liên Xô, Nga có khi Trung Quốc phải nhượng bộ một số vấn đề, nhưng từ ngày thành lập nước CHNDTH đến nay, Trung Quốc không chịu và không hề mất thêm một tấc đất nào nữa cho Liên Xô và Nga, trong khi vẫn không cam chịu từ bỏ ý đồ đòi lại vùng lãnh thổ, lãnh hải họ đã mất cho Nga từ thời Nga hoàng.
4. Qua việc xem xét mối quan hệ Trung Xô, Trung Nga có thể thấy một điều: cần hiểu người “sâu sắc, toàn diện” đừng bao giờ cả tin... Nếu ngay từ lúc đầu, và cho đến hôm nay, chúng ta, thấy rõ được người láng giềng “4 tốt”. “16 chữ” như người Trung Quốc, ban lãnh đạo Trung Quốc đã hiểu rõ Liên Xô và Nga thì dân tộc mình đâu phải trả giá lớn đến thế.

19 tháng 3, 2012

LÀNG MINH HƯƠNG – TỔ CHỨC XÃ HỘI ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI HOA Ở KHU VỰC CHỢ LỚN (THẾ KỶ XVII – XIX)

Trịnh Thị Lệ Hà*

1. Mở đầu
Những người Hoa di cư đến Việt Nam từ khá sớm. Riêng đối với vùng đất Nam Bộ, đợt di cư lớn nhất của người Hoa vào vùng đất này có thể xem như được bắt đầu từ thế kỉ XVII. Đợt di cư này gắn với sự kiện nhà Minh ở Trung Quốc sụp đổ, đồng thời là sự xác lập nhà Thanh. Không chịu khuất phục triều đình Mãn Thanh, nhiều thần dân của nhà Minh đã chạy nạn sang vùng đất Nam Bộ của nước ta và sinh sống ở đây
Năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lí đất Nam Bộ, ông đã thành lập nên hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn để quản lí cư dân sinh sống ở đây từ trước. Đối với người Hoa sinh sống trên mảnh đất này các chúa Nguyễn cũng có chính sách cai quản riêng. Đối với những người Hoa ở dinh Phiên Trấn, các chúa Nguyễn cho phép họ thành lập xã Minh Hương (hay làng Minh Hương). Còn đối với những người Hoa ở dinh Trấn Biên thì ông cho phép họ thành lập xã Thanh Hà.
Cư dân Trung Hoa trong làng Minh Hương mặc dù vẫn giữ nguyên phong tục tập quán riêng của mình nhưng họ vẫn được xem là những công dân Việt Nam. Với những thế mạnh riêng của mình về thương mại, cư dân làng Minh Hương thực sự đã có những đóng góp hết sức to lớn đối với sự phát triển vùng Sài Gòn nói riêng và vùng đất Nam Bộ nói chung.
Ngày nay, tuy tên gọi Minh Hương không còn nữa nhưng khi nhắc đến Sài Gòn trong các thế kỷ XVII – XIX chúng ta không thể không nhắc đến vai trò của người Minh Hương. Việc tìm hiểu về làng Minh Hương ở khu vực Chợ Lớn (thế kỉ XVII – XIX) là một việc làm hết sức có ý nghĩa trong việc hiểu thêm về sự hội nhập của người Hoa vào xã hội Việt Nam hiện nay.
Bài viết tập trung vào các vấn đề:
Vài nét về quá trình di dân và định cư của người Hoa ở khu vực Chợ Lớn.
Sự thành lập làng Minh Hương ở khu vực Chợ Lớn.
Cơ chế quản lí của làng Minh Hương ở Chợ Lớn.
Đời sống kinh tế - văn hoá của làng Minh Hương Chợ Lớn.
2. Vài nét về quá trình di dân và định cư của người Hoa ở khu vực Chợ Lớn
Người Hoa đến Việt Nam vào nhiều thời điểm với những đợt di cư lớn nhỏ khác nhau. Đợt di cư lớn có liên quan đến vùng đất Nam Bộ là đợt di cư diễn ra vào giữa thế kỉ XVII – có liên quan mật thiết với những biến cố chính trị lớn ở Trung Quốc, đó là việc Mãn Thanh vào xâm chiếm Trung Quốc và lật đổ triều đại nhà Minh.
Năm 1644, lợi dụng sự sụp đổ của vương triều nhà Minh sự nổi dậy của phong trào nông dân Lý Tự Thành, quân Thanh ào ạt kéo vào đánh chiếm Trung Quốc và thiết lập nên triều đại nhà Thanh. Từ đó, triều đình nhà Minh phải lưu vong khắp nơi. Vì không chịu khuất phục nhà Thanh, trong một khoảng thời gian dài, rất nhiều người dân Trung Hoa đã bỏ chạy sang nước ta, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Trong số này có những người vì tránh loạn mà chạy sang, nhưng cũng có những người vốn là di thần của nhà Minh, vì thất bại trong phong trào “Phản Thanh phục Minh” nên đã chạy sang nước ta lánh nạn; bên cạnh đó cũng có không ít người chạy ra hải ngoại chỉ vì không chịu khuất phục theo chính sách cai trị của nhà Thanh, trong đó nổi bật là chính sách bắt buộc phải thay đổi y phục và cạo đầu dóc tóc.
Di cư vào vùng đất Nam Bộ của nước ta trong thời kì này chúng ta có thể kể đến hai nhóm của hai nhân vật nổi tiếng ở Trung Hoa thời bấy giờ.
Nhóm thứ nhất là nhóm của các tướng Trung Hoa là Trần Thượng Xuyên (Trần Thắng Tài) và Dương Ngạn Địch đổ bộ xuống Đà Nẵng. Sách Gia Định thành thông chí chép: “Kỉ Mùi năm thứ 32 (1679) mùa hạ tháng 5, bọn Trấn thủ Long Môn thuỷ lục các xứ địa phương Tổng binh quan Dương Ngạn Địch, Phó tướng Hoàng Tiến và Trấn thủ Cao Lôi Liêm các xứ địa phương Tổng binh quan Trần Thắng Tài, Phó tướng Trần An Bình, ở tỉnh Quảng Đông, nước Đại Minh, đem quân lính và người nhà hơn 3000 người, chiến thuyền bơi 50 chiếc, đến hai cửa biển Tư Dung, Đà Nẵng (tức cửa Hàn Hải thuộc dinh Quảng Nam ngày nay) ở đất kinh đô, tâu lên nói là bề tôi xiêu dạt ở nhà Minh, vì nước tỏ lòng trung, sức hết thế cùng, phúc nhà Minh đã hết, không chịu làm tôi thờ nhà Đại Thanh, đến phương Nam thực lòng hàng phục, xin làm tôi tớ”[1].
Chúa Nguyễn nhận thấy vùng đất phương Nam còn rất phì nhiêu nhưng do không có nhân lực nên chưa khai khẩn được cho nên đã cho phép họ vào khai phá vùng đất phương Nam: đoàn của Trần Thượng Xuyên vào định cư ở vùng Biên Hoà – Cù Lao Phố (tỉnh Đồng Nai ngày nay). Đoàn của Dương Ngạn Địch vào định cư ở vùng Mỹ Tho (Tiền Giang ngày nay).
Nhóm thứ hai là nhóm của Mạc Cửu. Mạc Cửu quê ở phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Năm 1671 ông bị thất bại khi tham gia phong trào “Phản Thanh phục Minh” ở Trung Quốc nên đã đến nương náu ở đất Chân Lạp. Theo Phan Khoang thì Mạc Cửu nguyên là một chủ thuyền buôn, thường sang buôn bán ở Phi Luật Tân, có lẽ đã công tác mật thiết với họ Trịnh ở Đài Loan trong việc khuếch trương mậu dịch Đài Loan ở hải ngoại. Sau khi thấy nhà Minh không thể phục hưng được, ông không chịu cạo tóc, thắt bím theo nhà Thanh nên đã chạy sang cư ngụ ở đất Chân Lạp và làm quan với Chân Lạp[2].
Đây là hai nhóm di cư lớn và đáng kể nhất vào vùng đất Nam Bộ vào thời điểm đó. Từ những lớp di dân đầu tiên ấy, cùng với một số thương nhân người Hoa thường xuyên lui tới buôn bán ở Việt Nam bằng đường hàng hải đã hình thành nên một cộng đồng cư dân người Hoa trên vùng đất hoàn toàn mới của đất nước ta. Kể từ đây, vùng Sài Gòn – Bến Nghé trở thành nơi tụ họp đông đảo nhất người Hoa di cư.
Đất phương Nam vốn là vùng đất trù phú, mưa thuận gió hòa, có điều kiện thuận lợi cho công việc làm ăn sinh sống cho nên ngày càng thu hút đông đảo người nhập cư nhiều hơn. Chính vì thế, trong suốt thế kỉ XVIII, những lớp cư dân người Hoa vẫn tiếp tục di cư vào nước ta, tuy không ồ ạt như trước.
Đầu thế kỉ XVIII, hầu hết người Hoa ở thành phố Sài Gòn tập trung ở khu vực Chợ Lớn. Khu vực Chợ Lớn bao gồm rất nhiều thôn, xã trước đây thuộc tổng Tân Long, sau đổi thành huyện Tân Long, thuộc thành phố Chợ Lớn và tỉnh Chợ Lớn.
Năm 1771, khi quân Xiêm đánh Hà Tiên, một bộ phận người Hoa ở Hà Tiên đã chuyển cư về Chợ Lớn. Tiếp đó, năm 1772, khi Nguyễn Cửu Đàm đào kênh Ruột Ngựa thì khu vực Chợ Lớn càng trở nên đông đúc, phồn thịnh hơn. Theo Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh thì vì kênh thẳng như ruột ngựa nên mới đặt tên là kênh Ruột Ngựa. Kênh này có tác dụng lớn trong việc giúp cho việc đi lại giữa Sài Gòn và miền Tây thêm thuận lợi hơn. Đây chính là những lí do khiến cho người Hoa ngày càng tập trung đông đúc hơn ở khu vực Chợ Lớn.
Năm 1778, khi bị quân Tây Sơn truy quét, người Hoa ở Biên Hoà tản cư và đã đến tập trung trên bến sông Tân Bình và Bến Nghé. Điều này khiến cho nơi đây càng trở nên tấp nập hơn và về sau phát triển thành một thương cảng quan trọng mang tên là Chợ Lớn từ năm 1813.
Năm 1782, người Hoa chuyển cư về vùng kênh Tàu Hủ ở khu vực Chợ Lớn. Tại đây,  người Hoa đã thành lập nên những trung tâm buôn bán sầm uất, tấp nập – hiện nay là khu vực thuộc quận 5, 6, 8, 10, 11.
Theo Cheng Chinh Ho, cho đến năm 1889, tổng số người Hoa ở miền Nam lên đến 56000 người, trong đó có 16000 người ở Chợ Lớn và 7000 người ở Sài Gòn[3]. Phần lớn người Hoa ở miền Nam vốn có gốc ở các vùng duyên hải Nam Trung Hoa như Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và đảo Hải Nam.
Như vậy có thể thấy rằng Nam Bộ nói chung và Sài Gòn nói riêng trở thành vùng đất thu hút sự tập trung đông đảo người Hoa từ khá sớm. Với thế mạnh về buôn bán, ngay từ những ngày đầu có mặt trên mảnh đất Nam Bộ, người Hoa đã nhanh chóng nhận ra Chợ Lớn là khu vực có vị trí giao thông hết sức thuận lợi và đã sớm tụ cư ở khu vực này.
3. Sự thành lập làng Minh Hương ở khu vực Chợ Lớn
Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí đất Nam Bộ, lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên; xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Sau đó, Nguyễn Hữu Cảnh tiếp tục “chiêu mộ dân lưu tán ở Châu Bố Chính trở vào để ở cho đầy, đặt các xã thôn phường ấp, chia cắt địa phận, trưng chiếm ruộng đất, chuẩn bị thuế điền thuế đinh, làm ra sổ đinh điền”[4].
Đối với những người Hoa cư trú ở đây từ trước, các chúa Nguyễn cho phép họ được thành lập làng riêng của mình ở Trấn Biên và Phiên Trấn. Người Hoa ở Phiên Trấn được phép thành lập làng Minh Hương, còn người Hoa ở Trấn Biên được phép thành lập làng Thanh Hà. Gia Định thành thông chí chép: “từ đấy con cháu người Trung Quốc ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà; ở Phiên Trấn lập làm xã Minh Hương, đều biên vào sổ hộ khẩu”[5].
Như vậy có thể nói các chúa Nguyễn ngay từ khi vào kinh lí vùng đất Nam Bộ đã rất chú ý đến vai trò của những người Hoa cư trú từ lâu trong khu vực Chợ Lớn. Việc các chúa Nguyễn cho phép người Hoa được thành lập làng riêng đã thể hiện chính sách đối nội hết sức khôn ngoan.
Khu vực Chợ Lớn có rất nhiều thôn xã khác nhau, bao gồm những thôn xã của người Hoa và thôn xã của người Việt, Minh Hương xã chỉ là một trong số những làng của khu vực này. Theo Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh thì Chợ Lớn nằm trong địa hạt tổng Tân Long, sau là huyện Tân Long. Cư dân chính của làng Minh Hương ở Chợ Lớn chính là những người gốc Hoa đã cư trú ở nước ta từ lâu và được nhập quốc tịch Việt Nam.
Về niên đại thành lập làng Minh Hương ở Chợ Lớn thì cho đến nay hầu như chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu cũng như các nguồn tư liệu.
Theo “Khoán ước và tiểu sử các vị tiền bối” của Hội Minh Hương Gia Thạnh, xuất bản năm 1951 thì niên đại thành lập làng Minh Hương Chợ Lớn là năm 1789[6]. Tuy nhiên, Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh Gia Định thành thông chí thì cho rằng xã Minh Hương được thành lập ngay từ khi Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí đất Nam Bộ, tức là năm 1698.
Tuy “Khoán ước và tiểu sử các vị tiền bối” là tư liệu được lưu giữ ngay chính tại Hội Minh Hương Gia Thạnh, nhưng có lẽ niên đại 1789 mới thành lập làng Minh Hương mà Khoán ước này ghi thì có lẽ là quá trễ. Khi chúa Nguyễn vào đặt bộ máy thống trị ở đất Nam Bộ thì người Hoa đã cư trú ở đây từ khá sớm và đã sống tập trung thành làng; do đó, niên đại 1698 chúa Nguyễn cho phép thành lập làng Minh Hương là có vẻ hợp lý hơn, và đây cũng chỉ là một sự hợp thức hóa những nhóm cư dân người Hoa đã cư trú ở đây từ trước. Tuy nhiên, có một điều đáng chú ý là tuy Gia Định thành thông chí (soạn xong cuối đời Gia Long) ghi rõ ngay sau khi Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam Bộ năm 1698 thì “từ đấy con cháu người Trung Quốc ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà; ở Phiên Trấn lập làm xã Minh Hương, đều biên vào sổ hộ khẩu”[7], nhưng ngay trong bộ sách này cũng không hề tồn tại tên gọi Minh Hương và Thanh Hà trong danh mục các làng xã, phố phường của Trấn Biên và Phiên Trấn.
Ranh giới của làng Minh Hương xưa cũng được ghi lại khá rõ theo lời kể của Trương Vĩnh Ký trong sách Souvenir Historiques sur Saigon et ses environs, năm 1885: “Địa phận nằm giữa đường Marins (đường Đồng Khánh rồi Trần Hưng Đạo ngày nay) với mé rạch Chợ Lớn, là nơi cư ngụ của người Minh Hương, họ là người Tàu lai, ăn mặc theo lối ta và họp thành một xã có đặc ân”[8]. Có thể nói đây là một vị trí địa lý khá thuận lợi cho hoạt động thương mại. Kênh Tàu Hủ - nơi tập trung đông đúc người Hoa lúc bấy giờ vẫn là một khu vực hết sức rộng rãi, thuyền buôn trong và ngoài nước còn đi lại hết sức dễ dàng, do đó đã là một thương cảng lớn nhất của đất Sài Gòn – Gia Định vào cuối thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XVIII.
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Phan An thì địa phận làng Minh Hương mà Trương Vĩnh Ký nêu ra trên đây có lẽ cũng chỉ là một phần của khu vực cư trú của người Hoa ở khu vực Chợ Lớn vào đầu thế kỷ XVIII. Ông cho rằng khu vực cư trú của người Hoa ở Chợ Lớn rộng lớn hơn, như Trịnh Hoài Đức đã mô tả trong Gia Định thành thông chí: “Ở phía Nam trấn thự, cách 12 dặm ở vào tả hữu đường cái quan, ấy là đường phố lớn, thẳng suốt ba phố  đến tận bến sông, ngang ở giữa có một đường dưới ven sông, một đường đều cùng xâu suốt nhau như hình chữ điền mái nhà liền nhau, góc nhà cụng nhau, người Kinh, người Trung Quốc ở lẫn với nhau…”[9].
Như vậy, ta có thể thấy rằng cư dân làng Minh Hương ở Chợ Lớn sống tụ cư theo hình thức phố - chợ - bến sông; khu vực tập trung nhiều nhất là ven kênh Tàu Hủ. Điều đặc biệt mà ta thấy được qua Gia Định thành thông chí là trong những làng Minh Hương này không chỉ có riêng người Hoa mà còn có cả những người Việt sống xen kẽ nữa, nhưng tất nhiên số lượng người Việt rất ít mà chủ yếu là người Hoa.
Về tên gọi Minh Hương:
Đầu tiên, hai chữ Minh Hương có nghĩa là “những người gìn giữ hương hỏa nhà Minh” (“Minh” là nhà Minh, còn “hương” có bộ “hương” nghĩa là hương thơm). Ý nghĩa này dường như phù hợp với cách giải thích của Gustave Huê trong tác phẩm Guistave Huê Dictionaire Annamite – Chinois: Minh Hương là những người Trung Quốc trung thành với nhà Minh, đến Việt Nam ngay từ khi nhà Thanh chiếm quyền[10].
Định nghĩa này cho thấy ngưởi Minh Hương là người Hoa còn trung thành với nhà Minh, đến Việt Nam nhằm mục đích lánh nạn, không muốn làm thần dân của nhà Thanh. Họ tuân phục triều đình Việt Nam và xem Việt Nam như là quê hương thứ hai của mình. Hay nói cách khác, họ chính là những người tị nạn về mặt chính trị. Mặc dù vẫn giữ phong tục tập quán Trung Hoa nhưng người Minh Hương từ lâu đã được coi là người Việt Nam và có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội nước ta.
Với ý nghĩa đầu tiên này, Minh Hương thường được dùng như tên gọi của một cộng đồng, một đơn vị hành chính, thường đi kèm với từ xã (là đơn vị hành chính lớn hơn thôn, lân… và khác về nghĩa với phố). Ý nghĩa ban đầu của Minh Hương xã là đơn vị hành chính cấp xã, chỉ cộng đồng những di dân Trung Hoa trung thành với nhà Minh ở Đàng Trong và vùng Nam Bộ.
Tên gọi Minh Hương với ý nghĩa đầu tiên như vậy chỉ có thể hình thành trong khoảng thời gian từ sau năm 1645  đến năm 1683 – là khoảng thời gian các trung thần nhà Minh vẫn còn nuôi hy vọng khôi phục lại nhà  Minh. Nhưng từ sau năm 1683, khi lực lượng kháng chiến của Trịnh Thành Công đầu hàng Mãn Thanh, mọi hy vọng khôi phục nhà Minh hoàn toàn bị dập tắt thì không còn lí do để tồn tại tên gọi Minh Hương theo ý nghĩa này nữa.
Từ cuối thế kỉ XVII, khi phong trào di cư từ lục địa Trung Hoa vào Việt Nam trở nên ồ ạt, vấn đề xác định rõ quốc tịch người Hoa được chính quyền nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm. Đến lúc này, để dễ phân biệt, nhà Nguyễn đã chia những người Hoa ở Việt Nam thành hai nhóm: Minh Hương và Hoa kiều. Sự phân chia này chỉ nhằm mục đích đánh thuế chứ hoàn toàn không có ý phân biệt đối xử. Vào thời điểm này, tên gọi Minh Hương có thêm ý nghĩa phái sinh mới: Minh Hương là chỉ những thế hệ người lai giữa Hoa và Việt, thường là cha Hoa mẹ Việt như ý kiến của A. Schreiner: Minh Hương là sự thông hôn giữa đàn bà Việt và di dân nhà Minh chạy sang Giao Chỉ vào cuối thế kỉ XVII[11]. Từ Minh Hương lúc này vừa chỉ đơn vị hành chính (Minh Hương xã), vừa được dùng như tên gọi một nhóm người của xã hội: người Minh Hương (phân biệt với người Khách, người nước Thanh, người Cao Miên, người Chà Và, người Tây Dương…).
Từ đầu thế kỉ XIX, để giữ quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh, trong các văn bản ngoại giao chính thức, nhà Nguyễn đã thay chữ Hương (bộ “hương”) nghĩa là “hương hỏa” thành chữ “hương” (bộ ấp) có nghĩa là “quê hương”. Đến thời điểm này, khi nhắc đến người Minh Hương thì không còn có ý nghĩa là “những người giữ gìn hương hỏa nhà Minh”, “những người trung thành với nhà Minh” mà đã trở thành “những làng xóm cũ của người Hoa đến Việt Nam từ thời Minh”[12].
Mặc dù vẫn giữ phong tục tập quán Trung Hoa nhưng những người này từ lâu đã được xem là người Việt Nam và đã có nhiều đóng góp trong nền kinh tế xã hội đất nước ta nói chung và ở vùng Nam Bộ nói riêng. Đến thời Tự Đức (1847 – 1883), người Minh Hương được xem là những người Việt Nam toàn diện. Danh từ Minh Hương sau đó bao gồm tất cả con cái người Hoa đến Việt Nam lập nghiệp: những người mang hai dòng máu Việt – Hoa hay những trẻ em Hoa kiều sinh ra tại Việt Nam không kể ý muốn của cha mẹ[13]. Người Minh Hương bị cấm sinh hoạt theo phong tục của nhà Thanh và sống tách biệt với những khu vực có đông đảo người Hoa lục địa cư ngụ.
Để phân biệt với người Minh Hương, triều Nguyễn đã quy định thêm về chế độ Hoa kiều. Khái niệm Hoa kiều lúc này có nội hàm khác so với người Minh Hương. Hoa kiều là những người trong thời nhà Thanh đến Việt Nam và các quốc gia trong vùng Đông Nam Á lập nghiệp từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỉ XX. Những cư dân Trung Hoa này đứng về một khía cạnh nào đó có thể được xem như những di dân kinh tế và họ vẫn còn giữ mối liên hệ mật thiết với quê hương của mình. Đối với nhà Nguyễn, việc quản lí đối với những người Hoa kiều này cũng gặp không ít khó khăn, đặc biệt là trong những vấn đề liên quan đến sinh hoạt chính trị, xã hội và kinh tế với chính quyền Việt Nam.
4. Cơ chế quản lý của làng Minh Hương ở Chợ Lớn
Cơ chế quản lí của làng Minh Hương ở Chợ Lớn có một số điểm đặc biệt so với các làng xã khác ở Nam Bộ lúc bấy giờ. Việc quản lí các hoạt động của làng và dân làng dựa vào hai cơ sở: thứ nhất là những qui định của nhà nước phong kiến Việt Nam và thứ hai là dựa vào hương ước của làng. Cho đến nay làng Minh Hương Chợ Lớn là làng duy nhất ở khu vực Nam Bộ còn để lại hương ước. Bản hương ước của làng Minh Hương còn được gọi là “Khoán ước và tiểu sử của các vị tiến bối”.
Bản hương ước của làng quy định rõ về trách nhiệm của các hương chức trong làng; về các thứ bậc, tôn ti trật tự của các thành viên; việc xử lý những hương chức sai phạm; các nghi thức cưới hỏi, tang ma…. Hương ước cũng rất chú trọng đến mối quan hệ giữa các thành viên trong làng. Ngay từ lời mở đầu, bản hương ước đã nhấn mạnh về mối quan hệ giữa các thành viên: “Muốn qui tụ cho đông đảo, thì phải xử sự cho vuông tròn, người đời phải biết cư xử cho hòa nhã thì mới quý. Đông là nhờ biết phải quấy mà khuyên lẫn nhau. Hoà là biết lỗi, phải sửa mình ngay, ấy là nhờ biết (điều) vậy”[14]
Theo Khoán ước của Hội Minh Hương Gia Thạnh thì đảm nhận việc quản lý trong làng là một Ban Quản trị, với các vị hương chức do dân làng bầu chọn nên. Đứng đầu Ban Quản trị là ông Hương trưởng, kế đến là Hương lão và các ông Trùm. Tiêu chuẩn để được đứng vào trong Ban Quản trị phải là những người đứng tuổi hoặc có trình độ học vấn cao. “Hương lão và Hương trưởng là người tuổi cao tác lớn, công cán nhiều năm, chuyên lo việc quan, phân xử việc làng, phải nên gắng chí đồng lòng lo lắng cùng nhau, trông nhau như ruột thịt, chung lo giềng lợi và trừ mối hại”[15]. Khoán ước cũng có qui định rất chặt chẽ đối với cả những hương chức hạng thấp hơn: “chức Biện (cựu?) cũng như tán lá của làng, lựa chọn đủ tài năng đã lâu ngày công khó phải sánh đồng tâm hiệp lực mà làm cho tròn nhiệm vụ của mình, phải luân phiên nhau mà làm việc làng…. Nếu làng có việc cần dụng, thì hễ mời một lần là đến ngay, không đặng trì hưỡn hay lánh mặt…”[16]
Trong đội ngũ Ban Quản trị của làng Minh Hương cũng có một số người trước đây đã từng là quan chức trong triều đình trở về làng. Về sau chức vụ của các hương chức này có sự thay đổi về tên gọi, đổi thành Xã trưởng, Chức biện, Thủ giáp.
Nhiệm vụ của Ban Quản trị là quản lí tất cả các công việc chung của làng: trật tự an ninh; thu các loại thuế để nộp cho nhà nước Trung ương và chính quyền địa phương các cấp; giải quyết các vụ tranh chấp trong làng; tham dự và đảm nhận việc cúng lễ Kỳ yên; lo các việc tang ma, cưới hỏi của các thành viên trong làng Minh Hương. Trong Ban Quản trị làng Minh Hương thường có một người thông ngôn đảm trách việc phiên dịch khi các hương chức cần trao đổi, gặp gỡ với chính quyền địa phương.
Việc bầu chọn hương chức là một sự kiện thực sự quan trọng đối với làng Minh Hương ở Chợ Lớn và diễn ra hết sức sôi nổi như một ngày hội lớn của làng. Cho đến năm 1865, khi làng Minh Hương Chợ Lớn giải thể thì Ban Quản trị của làng chuyển thành Ban trị sự của đình Minh Hương Gia Thạnh.
Theo qui định của Nhà nước, hàng năm đinh tráng trưởng thành của làng Minh Hương Chợ Lớn phải đóng thuế thân. Theo sách “Khoán ước và tiểu sử của các vị tiền bối” thì ban đầu mỗi người đóng thuế hai nén bạc, về sau giảm xuống còn một nén. Người đứng đầu làng là Hương trưởng hoặc xã trưởng có khi phải ứng tiền riêng ra nộp thuế cho làng rồi sau đó thu lại. Vì dân làng Minh Hương đa số làm nghề buôn bán chứ không có ruộng nương cày cấy cho nên được nhà nước cho phép đóng thuế theo quy chế “biệt nạp”. Ngoài thuế đinh, làng Minh Hương Chợ Lớn còn phải nộp cho Nhà nước một số tiền thuế thu từ hoạt động buôn bán của làng[17]. Dân làng Minh Hương được miễn các nghĩa vụ như đi lính, đi xâu hay tạp vụ….
Làng Minh Hương Chợ Lớn qui định rất rõ về tôn ti trật tự giữa các thành viên trong làng. Theo Khoán ước thì “như trong làng có việc, thì đều lưu hợp lại, đặng bàn nghị. Các vị Hương lão, Hương trưởng, Trùm cựu, Trùm tân cũng như chức sự đều có mặt… Phải biết thượng hạ, tôn ti, khi vào tiệc, dưới trên cho có thứ lớp… Làng xóm lớn nhỏ đều hòa mục, trong ấm ngoài êm, sắc phục chỉnh tề, ăn nói ôn hòa”[18]. Khi trong gia đình hay giữa các gia đình trong làng có việc tranh chấp thì “phải đem việc ấy đến nhà ông Trùm mà kêu nài, hầu đem ra làng mà phân xử cho minh bạch, thưởng phạt cho rành”[19].
Bởi nếp sống có tôn trị trật tự trên dưới như vậy cho nên năm 1863, làng Minh Hương Chợ Lớn được vu Tự Đức ban tặng một bức hoành phi sơn son thiếp vàng với bốn chữ “Thiện tục khả phong” (phong tục tốt đẹp đáng khen). Tấm biển này hiện nay vẫn còn được lưu giữa tại đình Minh Hương Gia Thạnh.
5. Đời sống kinh tế - văn hóa của làng Minh Hương Chợ Lớn
Căn cứ vào những tư liệu ghi chép về đời sống kinh tế của người Hoa thời bấy giờ ta có thể thấy được rằng hoạt động kinh tế chủ yếu của người Hoa ở làng Minh Hương Chợ Lớn là thương mại và dịch vụ. Sống tụ cự hai bên con kênh lớn là kênh Tàu Hủ - nơi các thuyền buôn nước ngoài thường qua lại tấp nập cho nên làng Minh Hương Chợ Lớn rất phát triển ngành thương mại. Sách Gia Định thành thông chí chép: “các nước Tây Dương, Xiêm La, Tàu (tục gọi thuyền to đi biển là tàu), thuyền biển buôn bán đi về, cột buồm sát nhau, trăm thứ hàng họp lại, khiến chốn ấy là nơi đô hội lớn của đất Gia Định, cả nước không nơi nào bằng”[20].
Ở khu vực làng Minh Hương Chợ Lớn, hàng hóa từ các thuyền buôn nước ngoài đem đến thường là vải, tơ lụa, gấm, đồ sứ, đồ trang sức, giấy viết, trà, thuốc bắc… Các sản phẩm xuất khẩu của làng chủ yếu là đường, mía, hồ tiêu, cau, hương liệu, lúa gạo… Đặc biệt, lúc bấy giờ lúa gạo ở Chợ Lớn không chỉ xuất khẩu ra nước ngoài mà còn là nguồn cung cấp cho các tỉnh ở phía Bắc nước ta như Phú Xuân, Hội An…. Làng Minh Hương Chợ Lớn từ đó sớm trở thành một trung tâm chế biến lương thực, thực phẩm lớn của khu vực Nam Bộ.
Qua tìm hiểu khu vực Chợ Lớn ngày nay (các quận 5, 6, 8), nhà nghiên cứu Phan An cho rằng ngoài hoạt động thương mại và dịch vụ, người Hoa ở làng Minh Hương Chợ Lớn lúc bấy giờ có lẽ còn phát triển các nghề thủ công như làm gốm, làm kim hoàn, chế tạo các đồ dùng bằng thiếc, nghề rèn…. Những nghề thủ công này không chỉ đáp ứng nhu cầu trong vùng mà còn được bán sang các địa phương khác nữa.
Có thể nói rằng chính những hoạt động kinh tế hết sức tấp nập của người Hoa ở làng Minh Hương Chợ Lớn đã biến Chợ Lớn và khu vực hai bên kênh Tàu Hủ trở thành một đô thị sầm uất, một thương cảng lớn của đất Gia Định trong các thế kỉ XVIII – XIX.
Cùng với những hoạt động kinh tế năng động, người Hoa ở làng Minh Hương Chợ Lớn còn có đời sống văn hóa tinh thần hết sức phong phú. Đoạn văn trong Gia Định thành thông chí miêu tả khu vực cư trú của người Hoa ở dọc kênh Tàu Hủ (thực ra là làng Minh Hương ở Chợ Lớn) đã cho thấy điều đó: “Những buổi sáng đẹp đêm tốt, tam nguyên, sóc vọng, thi treo bày đua khéo khoe đẹp, như cây lửa cầu sao, thành gấm hội ngọc, trống kèn huyên náo, trai gái thành đàn, là một phố chợ đông đúc náo nhiệt…”[21].
Điểm đặc biệt của làng Minh Hương Chợ Lớn so với các làng khác ở Nam Bộ lúc bấy giờ là đây là một làng có hoạt động kinh tế thiên về buôn bán, kinh doanh và dịch vụ, do đó, nếp sống văn hóa của làng mang tính chất của một vùng đô thị, đô hội náo nhiệt với rất nhiều trò vui chơi giải trí. Điều này khiến cho làng Minh Hương Chợ Lớn có một nét đặc sắc riêng – vừa là làng, vừa là phố. Là nơi hội tụ nhiều loại người, nhiều phong cách, nếp sống khác nhau như vậy nhưng làng Minh Hương vẫn giữ được một nếp sống thuần phác, vừa vui tươi nhưng cũng vừa lịch lãm, đó thực sự là một điều đáng quý.
Mọi sinh hoạt văn hóa của làng Minh Hương Chợ Lớn chủ yếu diễn ra ở đình làng – đó là đình Minh Hương Gia Thạnh. Đình Minh Hương Gia Thạnh không chỉ là cơ sở tín ngưỡng đầu tiên của người Hoa ở khu vực Chợ Lớn mà đây còn là một nét độc đáo trong tín ngưỡng của người Hoa ở Nam Bộ. Hàng năm, tại đình Minh Hương Gia Thạnh diễn ra rất nhiều lễ hội, nhưng lớn nhất là lễ hội Kỳ yên – lễ hội cầu cho quốc thái dân an của cả làng.
6. Kết luận
Làng Minh Hương Chợ Lớn được thành lập từ rất sớm ở Nam Bộ. Tuy cho đến nay, niên đại thành lập làng Minh Hương Chợ Lớn vẫn chưa có sự thống nhất hoàn toàn trong giới nghiên cứu về người Hoa nhưng có thể khẳng định rằng sau khi Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý đất Nam Bộ thì ở khu vực Chợ Lớn đã hình thành nên làng xã của người Hoa – đó chính là làng Minh Hương.
Những người Hoa sinh sống trong làng Minh Hương hồi thế kỷ XVII – XIX được xem như là những người công dân Việt Nam. Làng Minh Hương cũng có tổ chức quản lí riêng của mình, đặt dưới sự quản lí của một Ban Quản trị của làng. Làng Minh Hương lúc bấy giờ vừa nằm dưới sự quản lý của các chúa và vua triều Nguyễn, nhưng đồng thời họ cũng có qui chế quản lý riêng của mình theo quy định của “Khoán ước”. Đây cũng là làng duy nhất ở Nam Bộ cho đến nay phát hiện được có tồn tại bản hương ước, đây là một điểm đặc biệt của làng Minh Hương so với các làng xã khác ở Nam Bộ, kể cả với những làng của người Việt.
Đời sống kinh tế - sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân làng Minh Hương thật sự phong phú. Hoạt động kinh tế chính của người Hoa trong khu vực Chợ Lớn là thương mại, dịch vụ. Chính sự phát triển sớm của thương mại như vậy cho nên ngay từ rất sớm, Chợ Lớn đã trở thành một trung tâm mua bán hết sức sầm uất ở Nam Bộ, thu hút không chỉ thương nhân các vùng khác mà còn cả thương nhân nước ngoài đến mua bán, trao đổi.
Cũng xuất phát từ hoạt động kinh tế đa dạng đó, sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Hoa cũng hết sức phong phú và mang đậm màu sắc của một vùng đô thị phát triển.
Ngày nay, tên gọi Minh Hương không còn tồn tại. Những người Minh Hương ở khu vực Chợ Lớn trước kia dường như đã hòa nhập hoàn toàn vào cộng đồng người Việt và trở thành những công dân đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM nói riêng và Nam Bộ nói chung. Điều này cho thấy mức độ hòa nhập của người Hoa vào xã hội Việt Nam hết sức mạnh mẽ. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.      Châu Hải, 1992, Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
2.      Fujiwara Riichiro, 1974, “Chính sách đối với dân Trung Hoa di cư của các triều đại phong kiến Việt Nam”, Việt Nam khảo cổ tập san, Số 8.
3.      Huỳnh Lứa, 2000, Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
4.      Li Tana, 1999, Xứ Đàng Trong, Nxb. Trẻ, TP.HCM.
5.      Nguyễn Cẩm Thúy (chủ biên), 2000, Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
6.      Phan An (chủ biên), 1990, Người Hoa quận 6 TP.HCM, Mặt trận tổ quốc Việt Nam quận 6, TP.HCM.
7.      Phan An (chủ biên), 1990, Chùa Hoa TP.HCM, Nxb. TP.HCM.
8.      Tân Việt Điểu, 1961, “Lịch sử người Hoa kiều tại Việt Nam”, Văn hóa nguyệt san, Số 61 + 62 + 65.
9.      Tô Nam, 1958, “Minh Hương lược khảo”, Văn hóa Á Châu, Số 5 + 6 + 7.
10.  Trần Hồng Liên, 2007, Nvgười Hoa ở TP.HCM, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
11.  Trần Kinh Hòa, 1961, “Làng Minh Hương và phố Thanh Hà thuộc tỉnh Thừa Thiên”, Đại học, Số 3.
12.  Trần Văn Đĩnh, 1961, “Vấn đề Hoa kiều tại Đông Nam Á”, Quê hương, Số 21 + 22.



* HVCH chuyên ngành Lịch sử, khoá 2007 - 2010
[1] Trịnh Hoài Đức, 1998, Gia Định thành thông chí (Bản dịch của Viện Sử học), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, Tr. 76.
[2] Phan Khoang, 2001, Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb. Văn học, Hà Nội, Tr. 327.
[3] Cheng Chinh Ho, 1960, Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và các cổ tích tại Hội An, Việt Nam khảo cổ tập san, Số 1, Tr. 1 – 30).
[4] Gia Định thành thông chí, Sđd, Tr. 77.
[5] Gia Định thành thông chí, Sđd, Tr. 77.
[6] Phan An, 2006, Góp phần tìm hiểu văn hóa người Hoa ở Nam Bộ, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, Tr. 36.
[7] Nguyễn Đình Đầu (chủ biên), 1987, Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. TP.HCM, Tr. 164.
[8] Nguyễn Đình Đầu (chủ biên), Sđd, Tr. 164.
[9] Gia Định thành thông chí, Sđd, Tr. 187.
[10] Guistave Huê Dictionaire Annamite – Chinois, Francais, 2000, q.570, dẫn theo Nguyễn Cẩm Thúy (chủ biên), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, Tr. 13.
[11] A. Schneiner, Les Institutions Annamites en Basse Cochinchine avant conquête Francaise, t.II, q.66, Dẫn theo Nguyễn Cẩm Thúy, Sđd, Tr. 13.
[12] Huỳnh Ngọc Đáng, 2002, “Về hai tên gọi Minh Hương và Thanh Hà”, Tập san Khoa học xã hội và nhân văn, Số 22, Tr. 93.
[13] Nguyễn Văn Huy, 1993, Người Hoa tại Việt Nam, Paris, Tr. 9.
[14] Phan An, Sđd, Tr. 41 – 42.
[15] Dẫn theo Phan An, Sđd, Tr. 42.
[16] Dẫn theo Phan An, Sđd, Tr. 42.
[17] Phan An (chủ biên), Sđd, Tr. 40.
[18] Dẫn theo Phan An, Sđd, Tr. 42.
[19] Phan An, Sđd, Tr. 42.
[20] Gia Định thành thông chí, Sđd, Tr. 150.
[21] Gia Định thành thông chí, Sđd, Tr. 187.

16 tháng 3, 2012

BÀN LẠI VỀ MỘT CÁCH TIẾP CẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CỔ SỬ

Hà Văn Thùy
 

Để viết chuyên khảo Về một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử (Talawas.org ) hẳn tác giả Trương Thái Du phải bỏ ra không ít tâm lực. Bài viết chia làm 3 tiết nhưng tựu trung có hai phần: Một phần dùng kiến thức di truyền học chứng minh cội nguồn người Việt. Phần còn lại thì khai thác sách cổ nhằm minh định một số vấn đề trong cổ sử. Chúng tôi xin trao đổi cùng tác giả đôi điều.
  
I. VỀ VIỆC SỬ DỤNG GIẢ THUYẾT CỦA SPENCER WELLS.

Ông Trương Thái Du viết: "Từ kết luận của Spencer Wells, tôi tính ra: cuộc di dân đầu tiên từ Phi châu diễn ra cách nay 60.000 năm. Đoàn người đi dọc vùng đồng bằng ven biển Nam Á , đến Đông Nam Á. Tại đây một nền văn minh đồ đá đã được hình thành. Từ  9 đến 12 ngàn năm trước, kiến tạo địa chất ở vành đai lửa Indonesia với sóng thần, đất sụt đã nhấn chìm trung tâm văn minh Tiền Đông Nam Á. Những cư dân còn sót lại sau thảm họa đã chia làm hai nhánh, nhánh thứ nhất đến châu Uc, nhánh thứ hai rẽ lên phía Bắc, rồi dừng lại khá lâu bên bờ Nam Trường Giang… Cuộc di dân thứ hai cũng từ châu Phi cách nay 45 ngàn năm. Họ đến Trung Đông, từ Trung Đông hai phân nhóm đã hình thành tiến vào An Độ và vùng tây bắc Trung Hoa." Và "Phân nhánh của đoàn di dân tiến vào trung lưu Hoàng Hà bằng hành lang Cam Túc, xây dựng nền văn minh tạm gọi là Hoa Hạ."
    
Cảm thấy không yên tâm với "tính toán" của tác giả, chúng tôi đọc tài liệu ông dùng để tham khảo. Tiếc thay, đó không phải công trình trọn vẹn mà chỉ là bài điểm sách giới thiệu giả thuyết của Spencer Wells nhan đề  Documentary Redraws Humans' family Tree (Tư liệu truy tìm phả hệ con người) do phóng viên Hillary Mayell viết cho tạp chí National Geographic News số ra ngày 21/3/2003. Đoạn văn bản mà tác giả Trương Thái Du sử dụng nguyên dạng như sau:
" Wells says his evidence based on DNA in the Y-chromosome indicates that the exodus began between 60,000 and 50,000 years ago. In his view, the early travelers followed the southern coastline of Asia, crossed about 250 kilometers [155 miles] of sea, and colonized Australia by around 50,000 years ago. The Aborigines of Australia, Wells says, are the descendants of the first wave of migration out of Africa…"
Và:
" Wells says a second wave of hominids left Africa around 45,000 years ago, reproduced rapidly, and settled in the Middle East; smaller groups went off to India and China." 
  Tạm dịch:  " Wells nói, bằng chứng của ông dựa vào DNA của nhiễm sắc thể Y(Y-chromosome) cho thấy cuộc di cư bắt đầu khoảng 60.000 đến 50.000 năm trước. Theo ý ông, những người ra đi đầu tiên đã theo bờ biển Nam Á, vượt qua 250 km dđường biển (155 dặm) và định cư ở châu Uc vào khoảng 50.000 năm trước. Wells nói, thổ dân Uc là con cháu của làn sóng di cư đầu tiên từ châu Phi."
  
Và: "Wells nói, làn sóng thứ hai của loài người rời châu Phi 45.000 năm trước, sinh sản mau lẹ và định cư tại Trung Đông; một vài nhóm nhỏ hơn tới An Độ và Trung Quốc."
  
So sánh đoạn văn của ông Trương với bản tiếng Anh, chúng tôi thấy có sự mâu thuẫn:
 
1.Theo S. Wells: "những người ra đi đầu tiên đã theo bờ biển Nam Á, vượt qua 250 km đường biển (155 dặm) và chiếm châu Uc vào khoảng 50.000 năm trước." Có nghĩa là đoàn người chỉ đi theo tức là đi lướt qua bờ biển Nam Á rồi vượt biển đến Uc. Không hề có chữ nào nói tới việc dừng lại ở Đông Nam Á.
     
Wells nói người hiện đại định cư ở châu Uc 50.000 năm trước, trong khi đó ông Trương rút lại còn từ  9 đến 12000 năm. Như vậy "tính toán" của ông Trương đã mâu thuẫn với tư liệu ông tham khảo.

2.Bản tiếng Anh viết: làn sóng thứ hai tới định cư tại Trung Đông, một nhóm nhỏ hơn đến An Độ và Trung Quốc.

Nhóm nhỏ ấy là ai, thuộc tộc người nào? Không thỏa mãn với khái niệm không xác định một nhóm nhỏ, chúng tôi đã tìm hết bài viết, mong biết thêm về cái nhóm nhỏ đó nhưng không có! Vậy họ là ai?
   
Trước đây có giả thuyết cho rằng cộng đồng nói tiếng Altaic sống ở bắc Trung Quốc là quần thể từ Trung Đông sang. Nhưng thành tựu mới nhất của công nghệ genes đã bác bỏ điều này.
   
Xin dẫn ý kiến của một nhà di truyền người Mỹ gốc Hán, G.s Chu trong công trình Genetic relationship of population in China, một khảo cứu trực tiếp về quan hệ di truyền của người Hán:

"The northern populations were under strong genetic influences from Altaic populations from the North. But it is unclear how Altic populations migrated to Northeast Asia. It is possible that ancestral Altic pop. Arrived there from middle Asia, Or alternatively they may have originated from East Asia."
Và:
"Therefore, it is likely that ancestors of Altic speaking people originated from an East Asia population that was originally derived from South Asia, through the current Altaic-speaking population undeniably admixed with later arrivers from mid-Asia and Europe(1)
Tạm dịch:
"Những cộng đồng miền bắc mang đậm ảnh hưởng di truyền của những chủng Altaic từ phía Bắc. Nhưng không rõ người Altaic đã tới Đông Bắc Á bằng cách nào. Có thể là tổ tiên người Altaic đến từ Trung Á, hoặc cũng có thể họ có nguồn gốc từ Đông Á."
   
Nhưng ở đoạn sau, ông nói cả quyết:
 "Như  vậy, có phần chắc là tổ tiên của người nói tiếng Altaic bắt nguồn từ một cộng  đồng Đông Á mà cộng đồng này lại từ Nam Á đi lên, mặc dù không thể phủ nhận là về sau cộng đồng nói tiếng Altaic này có sự hòa huyết với những người từ Trung Á và châu Au tới."
 
Cái "nhóm nhỏ hơn đến Trung Quốc" ấy không phải người Altaic. Vậy phải chăng họ là nhóm Mongoloid phương Bắc mà ông Trương cho là người Hoa Hạ? Sự thực, nhóm này không phải từ Trung Đông sang mà cũng từ Đông Nam Á đi lên. Trong một nghiên cứu trên 150 mẫu của 7 nhóm người châu Á, Ballinger S.W cho rằng người châu Á có nguồn gốc từ dân Mông Cổ phương Nam.(2)
  
Những nghiên cứu trên cho thấy, cái nhóm nhỏ hơn tới Trung Quốc trong phát biểu của S. Wells không dính dáng gì đến cư dân Trung Quốc ở thời điểm chúng ta đang bàn!
   
Từ giả thuyết chưa được kiểm chứng của tài liệu tham khảo, ông Trương đã "tính toán" đưa ra nhận định không phù hợp với thực tế, quả là việc làm chủ quan khinh suất.
  
Trên thực tế thì sự việc thế này: phát biểu của S. Wells một phần còn là giả thuyết đang được tranh cãi (Bài điểm sách có dẫn nhiều ý kiến tranh luận với ông.) Thêm nữa, công trình của S.Wells mang tính đại cương (General genetics), như nhan đề nói rõ truy tìm phả hệ loài người. Sử dụng công trình của S. Wells để có cái nhìn khái quát về nguồn gốc người hiện đại thì được, còn dùng nó để khảo sát một chủng người cụ thể sẽ là bất cập vì không đủ độ tin cậy.
 
Với một vấn đề lớn và còn mới mẻ như nguồn gốc người Việt không thể chỉ dùng một tài liệu tham khảo duy nhất. Đặc biệt khi giả thuyết đó quá tổng quát, ở tầm vĩ mô, lại đang nằm trong tranh luận. Như vậy là, khi dùng giả thuyết của S.Wells làm nền tảng cho khảo cứu của mình, ông Trương Thái Du mắc sai lầm thuộc về phương pháp luận.

II- VỀ VIỆC KHAI THÁC THƯ TỊCH CỔ
 
Trong khi chưa quan tâm đủ tới những tư liệu khoa học hiện đại thì có vẻ như ông Trương để nhiều công sức cầy xới nguồn thư tịch cổ. Tuy ít ỏi nhưng thư tịch cổ tàng chứa biết bao thông tin quý mà mỗi ngày hình như con người giải mã thêm được điều gì đó. Đóng góp của ông Trương trong bài viết là tìm đến tận nguồn khái niệm Giao Chỉ và đưa ra những kiến giải thuyết phục. Tuy không mới nhưng ông cũng mạnh dạn nêu lại vấn đề nhân thân của Bà Trưng: ông Thi, việc Bà bị giết… Điều này nhắc với dân chúng cùng những nhà viết sử là : Lịch sử không thể không sáng tỏ !
   
Nếu cứ theo cách làm cẩn trọng ấy thì hẳn với tuổi tác của mình, ông còn thời giờ để phát hiện ra nhiều điều đáng giá. Tiếc rằng trong bài viết, phải chăng vì nóng vội muốn đốt cháy giai đoạn, xong mọi việc ngay một lúc, ông đưa ra không ít suy luận có phần vội vàng thiếu sở cứ.

 1.Thử hỏi, dựa vào đâu ông viết: "Từ  9 đến 12 ngàn năm trước, kiến tạo địa chất ở vành đai lửa Indonesia với sóng thần, đất sụt đã nhấn chìm trung tâm văn minh Tiền Đông Nam Á ? ( HVT nhấn mạnh ) " Chưa thấy tài liệu nào nói sóng thần, đất sụt nhấn chìm văn minh tiền Đông Nam Á. Không thể có những tài liệu như thế vì làm gì có chuyện sóng thần đất sụt kéo dài hàng nghìn năm ? Lịch sử khí tượng Trái đất chỉ ghi nhận cuộc biển tiến bắt đầu 18.000 năm và đỉnh cao là 12 đến 8000 năm trước, nhấn chìm đồng bằng Sundaland và Nanhailand mà S. Oppenheimer mô tả rất sinh động trong cuốn Eden in the East.

 2. Xin mạo muội lưu ý ông rằng, khái niệm Hoa Hạ do ông đưa ra không phù hợp với từ Hoa Hạ trong quan niệm truyền thống. Theo ý ông thì, người Hoa Hạ là tộc người từ Trung Đông sang định cư ở Cam Túc, Thiểm Tây. Đấy là ngộ nhận kéo dài suốt thế kỷ trước và đã bị bác bỏ. Còn trong quan niệm truyền thống, những người Hoa Hạ tạo nên thời Đường Ngu, rồi được kế tiếp bằng nhà Hạ, mà Hạ Vũ là người Miêu Việt. Tiếp theo là nhà Thương. Thành Thang, ông vua đầu tiên của Trung Quốc là người mang gene châu Phi đen từ Đông Nam Á đi lên, cả đến Lão tử cũng vậy. (The Shang, for example, China's first dynasts are described as having "black and oily skin". The famous Chinese sage Lao-Tze was "black in complexim". (Los Angeles Times, September. 29. 1998) (Thang, ông vua đầu tiên của Trung Hoa được mô tả là có nước da đen bóng. Triết gia nổi tiếng Lão tử cũng có màu da đen). Cố nhiên ta phải hiểu rằng, những vị này không còn là nguyên chất Negritoid Đông Nam Á mà đã qua nhiều đời hòa huyết với chủng da vàng Mongoloid phương Bắc từ Thiểm Tây, Cam Túc xuống. Người Hoa Hạ là người lai Hoa Việt, được gọi là chủng Mongoloid phương Nam.

3 - Ông Trương viết : " Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ ( Hồ Nam Trung Quốc ) khoảng năm Nhâm Tuất 1199. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang Quảng Tây Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ là Văn Lang Tây Giang… Không ít cư dân Văn Lang Động Đình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN "

Thật khó bàn luận chuyện này bởi nhận định trên chỉ là phỏng đoán mâu thuẫn với thực tế. Khi phát hiện di chỉ Mán Bạc ở Ninh Bình, đầu năm 2005, tiến sĩ Marx Oxenham của Đại học Quốc gia Úc ghi nhận: "Người Việt từ trước thời Đá mới đã có biểu hiện của giống người Úc châu ( Nam Đảo ) hay Đa đảo Melanesian, nhưng người Việt từ thời Đồng thau đã có biểu hiện đặc trưng của giống người Đông Nam Á. Sự hiện diện của cả hai nhóm sắc tộc này sát cánh nhau trong khu mộ táng cho thấy đã có sự hỗn hòa giữa hai chủng ở mức độ đáng kể, có thể là đánh dấu những nguồn gốc sớm nhất về dân cư Việt Nam hiện thời, vốn đã từng ổn định khoảng 2000 năm TCN. " (3)

Phát hiện này không mới, nó chỉ khẳng định những nghiên cứu trước đó cho rằng, hơn 2000 năm TCN, người Việt mới (chữ Việt với bộ Tẩu- những người Bách Việt hòa huyết với người Hán chuyển thành nhóm loại hình Đông Nam Á ) bị người Hán xua đuổi, đã trở về quê cũ cộng cư với người Việt gốc ( Việt bộ Mễ- Indonesien, Melanesien ),  làm chuyển hóa hầu hết dân cư  Việt Nam sang loại hình Đông Nam Á. Trong việc di cư này không chỉ có hình thức "cuốn chiếu" tiệm tiến theo đà truy đuổi của người Hán mà có cả hình thức nhảy vọt: người Việt sống ở phía nam Hoàng Hà sau những trận kịch chiến với kẻ xâm lăng đã dông thuyền ra khơi trở về nơi xuất phát cũ là miền Trung Việt ( Rào Rum, ngàn Hống ) . Chính những người này dựng lên nhà nước Văn Lang. Ký ức dân gian ghi nhớ rằng Lạc Long quân cùng bầu đoàn tới vùng sông Lam núi Hồng dựng kinh đô đầu tiên nói lên cuộc hải hành này. Như nhiều sách chép, cương vực Văn Lang vươn tới Động Đình Hồ nhưng trung tâm của nó là trung du Bắc Bộ. Số lượng lớn trống đồng tinh xảo tập trung ở đây cùng với đô thị Làng Cả chứng minh Việt Trì là trung tâm của Nhà nước Văn Lang. Việc ông Trương Thái Du phủ nhận Nhà nước Văn Lang đóng đô ở Việt Trì là giả thuyết không có cơ sở.

4 - Ông Trương viết: "Tôi nghĩ có một nhánh nhỏ người Tây Âu Lạc ra đi bằng thuyền đã ghé bờ biển Trung Bộ Việt Nam. Họ trở thành hạt nhân của nền văn minh Chàm…" Suy nghĩ đó không mới bởi từ lâu sử sách ghi nhận rằng nhóm Việt này từ Thiên Sơn xuống, định cư từ cửa sông Thanh Giang tới cửa sông Trường Giang (4). Đấy là hệ quả của thuyết E.Aymonier đầu thế kỷ: Người Việt từ Tây Tạng xuống theo ngọn sông Trường Giang ! Trong khi đó những phát kiến mới nhất về di truyền học cho thấy ngược lại : Người Chăm cũng như người Việt cổ là người bản địa Việt Nam, thuộc chủng Indonesien, Vedoid, là chủ nhân của Văn hóa Sa Huỳnh. Từ đây, tổ tiên người Chăm đi xuống các đảo ngoài khơi như Mã Lai, Indonesia.  Trong hành trình Bắc tiến, tổ tiên người Chăm cùng những dòng Việt khác từ đất Việt Nam đi lên phương Bắc. Khoảng thiên niên kỷ thứ III TCN do người Hán chèn ép đã trở lại Việt Nam. Trong khi người Việt trở về với dân Việt ở đồng bằng trung du Bắc Bộ thì người Chăm trở lại quê cũ miền Trung. Cố nhiên có những nhóm đi xa hơn, tới Indonesia, Malaysia… Sự chuyển hóa di truyền của người Chăm từ  Vedoid sang nhóm loại hình Đông Nam Á trên toàn địa bàn Đông Nam Á chứng tỏ điều này.

5 - Ông Trương còn viết: "Chiếu theo bản chất của danh xưng "Vua Hùng" thì bà Trưng Trắc chính là vị Vua Hùng đầu tiên và cũng là cuối cùng của vùng đồng bằng sông Hồng."
Không hiểu căn cứ vào đâu mà ông Trương Thái Du khẳng định như vậy.  Nếu luận lý theo logic thì thế này: thời Hai Bà Trưng là thời của văn tự. Mọi chuyện xảy ra đều được ghi chép. Có thể nảy sinh huyền thoại về sự tuẫn tiết của Bà cùng những vị tướng khác nhưng không thể nào nảy sinh huyền thoại về các vua Hùng ở thời điểm này. Huyền thoại Hùng vương chỉ có thể nảy sinh từ huyền sử. Đúng là thời Hùng vương mang nhiều sắc thái huyền thoại nhưng Nhà nước Văn Lang Phong Châu là có thực, tuy người ta đoán rằng còn là hình thức liên bộ lạc, vua chỉ mang nghĩa tượng trưng như một tù trưởng của liên minh bộ lạc. Phát hiện rồi chứng minh thời Hùng vương dựng nước cùng Văn hóa Đông Sơn là thành quả xuất sắc của khảo cổ và lịch sử Việt Nam, được bạn bè thế giới cùng nhiều trí thức người Việt ở nước ngoài thừa nhận. Ý tưởng phủ định thời Hùng vương của ông Trương không thuyết phục vì thiếu chứng cứ.
   
Suốt thời gian dài, các nhà sử học của chúng ta phải giải bài toán hóc búa hai ẩn số : Vừa tìm nguồn gốc người Việt , vừa phải tìm lịch sử dân tộc. Do vậy những sai sót, ngộ nhận là dễ hiểu. Nhưng may mắn, từ cuối năm 1998 khi các nhà khoa học tham gia Dự án Đa dạng di truyền người Hán (Chinese Human Genome Diversity Project) công bố kết quả nghiên cứu, chúng ta có lời xác nhận khả tín về nguồn gốc người Việt như sau: khoảng 70-60.000 năm trước, Homo Sapiens từ Trung Đông vượt qua Pakistan, Ấn Độ rồi theo bờ biển Nam Á tới định cư ở Trung bộ Việt Nam. Dừng tại đây trong khoảng 10.000 năm, hai đại chủng Mongoloid và Australoid lai giống tạo nên hai chủng Indonesien, Melanesien cùng những chủng hòa huyết giữa chúng (Vedoid, Negritoid), lan tỏa khắp lục địa Đông Nam Á. Khoảng 50.000 năm trước, người từ Đông Nam Á đi tới Uc, 40.000 năm trước tới New Guinea. Khoảng 40.000 năm trước, khi băng hà tan, khí hậu ấm trở lại, người Đông Nam Á đi lên phía Bắc và khoảng 30.000 năm trước vượt Siberia, qua eo Bering sang châu Mỹ. (5)

Ẩn số quan trọng nhất của bài toán được khám phá: Người Việt là sắc tộc có mặt sớm nhất ở Đông Á, đã từ Việt Nam lên khai phá đất Trung Hoa. Khi bị người Hán chiếm đất, một phần ở lại xây dựng nước Trung Quốc, một bộ phận trở về nơi phát tích cũ cùng người Việt tại chỗ xây dựng nước Văn Lang.

Nếu trước đây chúng ta chỉ biết tới lịch sử 4000 năm Nam tiến ( thực chất là cuộc hồi hương về nguồn ! ) thì bây giờ, ta biết được lịch sử 40.000 năm Bắc tiến: Tổ tiên ta là người chủ đầu tiên của đất nước Trung Hoa ! Lần theo sợi chỉ đỏ này, chúng ta có chìa khóa giải mã những trang sách, những hiện vật khảo cổ, những nghiên cứu xã hội học… Một thời gian và địa bàn mênh mông cho khám phá.

III/  ĐIỀU MONG MỎI
 
Hình như có ai đó viết trên mạng Talawas, đại ý: "Người Việt Nam nào cũng là nhà Việt học!" Ngẫm ra, ẩn trong bề ngoài khôi hài, ý này không phải hoàn toàn là sự đùa bỡn. Là con dân của dân tộc có một lịch sử quá nhiều đau khổ mất mát, bị đánh cắp, bị cướp đoạt, bị hủy hoại… đến nỗi không biết tổ tiên là ai ! Vì vậy, mỗi người Việt có suy nghĩ đều mong tìm về nguồn cội, đều muốn viết lại cuốn sử của dân tộc. Do lẽ đó, không ít người đọc qua ít cuốn sách, ít bài báo, "ngộ" ra điều gì tâm đắc đều muốn phô cho đồng bào mình hay. Cố nhiên trong những người nóng rẫy nhiệt tình đó, không khỏi có người nông nổi vội vàng, khảo ít mà biên nhiều; lý ít mà luận nhiều… khiến cho những vấn đề cổ sử Việt Nam ngày thêm rối rắm. Những "nhà Việt Nam học" của chúng ta giống như thày bói xem voi trong truyện ngụ ngôn và chúng ta thành dân Babel càng nói nhiều càng không hiểu nhau…
 
Mong sao những nhà có tri thức có tâm huyết về việc này liên hệ với nhau lập ra một diễn đàn do những người có uy tín có kinh nghiệm chủ trì để cho những người biết chuyện biết việc phát biểu, bàn thảo không tràn lan mà dứt dạt từng chủ đề. Khoảng hai năm một lần tổ chức hội thảo nhỏ, năm năm một lần tổ chức gặp gỡ lớn để "chung khảo" công bố những phát kiến mới. Sau đó tiến hành in bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Hoa…. Nếu ta trì chí làm như vậy, chắc sẽ có những thành tựu. Mong thay!

Xin đọc:
1. J.Y. Chu & đồng nghiệp: Genetic relationship of population in China. Proc.Natl. Acad. Sci.USA 1998 số 95 tr. 11763-11768.
  - Bing Su & đồng nghiệp: Y-chromosome evidence for a northward migration of modern human into Eastern Asia during the last Ice Age. American Jurnal of Human Genetics 1999; 65; 1718-1724.   
2. S.W. Ballinger&đồng nghiệp: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 số 130 Tr.139-45
 3/Lê Anh Vũ: Tin Oxenham hay tin BBC. Talawas 3/3/2005
4/ Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB ĐH&THCN H.1983

5/ Xem các tài liệu 1 và nên xem Nguyễn Văn Tuấn: Tìm về nguồn gốc dân tộc Việt Nam qua di truyền học. (Giaodiem.com)