Tác giả: Roland Jacques
Người dịch: Nguyễn
Đăng Trúc
Lời người dịch: Chúng
tôi trích hai bản Phụ Đính trong tác phẩm song ngữ (Pháp Việt) “Các nhà
truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam” (Les
missionnaires portugais et les débuts de l’Église catholique au Viêt-nam) của
Roland JACQUES (Nxb: Định Hướng Tùng Thư , năm
2004) để cống hiến một chứng tích hình thành và phát triển chũ quốc ngữ từ năm
1932 dến nay, qua . tiến trình của Kinh Lạy Cha.
Phụ Trương VII
Tiến trình của Kinh Lạy
Cha
Để lượng giá
tiến trình của chính tả và ngữ nghĩa từ năm 1632, chúng tôi chép lại dưới đây
vài bản văn kinh Lạy Cha tiếng Việt được viết bằng chữ cái.
Lưu ý :
Đối với bản văn La Tinh của tài liệu và những chỉ dẫn phát âm, đề nghị xem bảng
nhất lãm.
Bản văn gốc tiếng Việt
trong tài liệu (1632)
i ciúm toi nguyẽn daim
Cia cã sám. Coác Cia tlen blœ Cia ciúm toi œ i bẽi. Ciúm toi tlom cia trĩ ðen. Bum í cia lam cium ðét bàm cium
blœ ciúm toi bàm ciúm toi ít rài cio ciúm toi hàm ngäì dum ðũ. Mà tha
nœ ðẽ ciúm toi sa cium cám dõ. Bèn cẽa
ciúm toi bẽi. Lãi cœ tha kẽ ciũ nœ toi cium tai dũ.
Bản văn 1632 ghi lại theo
chính tả được chuẩn hóa trong từ điển Alexandre de Rhodes (1651):
Cha chúng tôi ở tlên
blời, chúng tôi nguiẹn danh Cha cả sáng. Cuốc Cha trị đến. βâng í Cha làm chưng
đất [đết] bàng chưng blời βậy. Chúng tôi đủ, mà tha nợ chúng tôi bàng tloū Cha rày cho chúng tôi hàng ngày dū chúng
tôi ít tha kẻ chủ nợ tôi βậy. Lại chớ để chúng tôi sa chưng cám dĕỗ, bèn chữa
chúng tôi chưng tai dữ.
Bản văn 1632 ghi lại theo
qui tắc chính tả hiện nay:
Cha chúng tôi ở trên
trời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng. Quốc Cha trị đến. Vâng ý Cha làm trưng
[chưng] đất bằng trưng [chưng] trời vậy. Chúng tôi trông Cha rày cho chúng tôi
hằng ngày dùng đủ, mà tha nợ chúng tôi bằng chúng tôi ít tha kẻ chủ nợ tôi vậy.
Lại chớ để chúng tôi sa trưng [chưng] cám dỗ, bèn chữa chúng tôi
trưng [chưng] tai dữ.
Chúng tôi lậy thiên địa
chân chúa ở trên blời là cha chúng tôi. Chúng tôi nguyện danh [cha] cả sáng.
Cuốc cha trị đến. Vâng ý Cha [làm] dưới đất bằng trên blời vậy. Chúng tôi xin
cha rày [cho] chúng tôi hằng ngày tha kẻ
có nợ chúng tôi dùng đủ. Mà tha nợ chúng
tôi bằng chúng tôi cū vậy. Xin chớ để chúng tôi sa chưng cám dỗ. Bèn chữa chúng
tôi chưng sự dữ.
Bản văn kinh Lạy Cha nhận vào năm 1905
Lạy Cha chúng tôi ở trên
trời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Vưng ý Cha làm dưới
đất bằng trên trời vậy. Chúng tôi xin Cha cho chúng tôi rày hằng ngày
dùng đủ. Và tha nợ chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi. Lại
chớ để chúng tôi phải sa cám dỗ, bèn chữa chúng tôi cho khỏi sự dữ.
Bản văn kinh Lạy Cha được
đề xuất năm 1992
Lạy Cha chúng con là Ðấng
ngự trên trời, xin làm cho danh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng
ngày; xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi
với chúng con; xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho
khỏi sự dữ.
Phụ Trương V – Bản văn
tiếng Việt
A – Le Pater Noster
* Lưu ý : Trong bản viết tay năm
1632, các cột chữ hầu như đều tương ứng với nhau, ngữ nghĩa lại khác nhau tùy mỗi
thứ chữ. Ở đây chúng tôi theo nguyên tắc ấy. Bản 1992 đặc biệt đã thay đổi cú
pháp truyền thống của Kinh Lạy Cha. Xin đừng xem cột cuối là bản dịch các cột
song song đằng trước.
B – Từ vựng
C – Số
Chú thích thống kê về từ vựng trong văn kiện 1632
Nếu ta thử xếp loại các
từ theo chữ Nôm (N), Hán-Việt (HV) và hỗn hợp (HVN), theo những qui ước trong
từ điển Huình-Tịnh Paulus Của [Dictionnaire annamite. Đại Nam quấc âm tự vị,
2 tập, Saigon, Rey-Curiol, 1895-1896], ta sẽ
có kết quả sau:
Đối với kinh Lạy Cha:
Tất cả mọi chữ: HV 19;
HVN 5; N 41, nghĩa là giữa 23.2% và 27,1% Hán Việt
Từ vựng: HV 13; HVN 3; N
27, nghĩa là giữa 33,1 và 37,2% từ Hán Việt
Đối với toàn bộ tài
liệu.
Tất cả mọi chữ: HV
30; HVN 7; N 116, nghĩa là giữa 19,6% và 27,1% Hán Việt
Từ vựng: HV 23; HVN 5; N
93, nghĩa là giữa 19,0% và 27,1% từ Hán Việt