Nguyễn Hữu Hiếu
Công
cuộc khai mở đất Nam
bộ có thể nói được bắt đầu từ cuối thế kỷ xvi-đầu thế kỷ vii, với vài sự kiện
còn biết được. Đó là cuộc hôn nhân ngoại giao giữa quốc vương Chân Lạp Chêy
Chett II và công nương Ngọc Vạn (con chúa Sải Nguyễn Phước Nguyên vào năm 1620
và tiếp theo đó là sự kiện Chêy Chetta II cho chúa Sải Nguyễn Phước Nguyễn “mượn” đất Prey Nokor (Sài Côn/Sàigòn)
vào năm 1623 để lập trạm thuế thương chính. Đến năm 1757, cụộc khai mở được xem
như kết thúc với sự kiện quốc vương Chân Lạp nhường đất Tầm Phong Long (Kompong
Luong), vùng đất nằm giữa sông Tiên và sông Hậu, cho chúa Nguyễn.
Để
thấy được công lao to lớn của các lớp lưu dân tiền phong người Việt và bản lãnh
ứng phó linh họat của các chúa Nguyễn trong công cuộc Nam tiến trên
vùng đất này chúng ta thử nhìn lại tình hình châu thổ Mékông-Đồng Nai trong
khoảng thời gian nói trên.
Theo
cách gọi của sử gia Trung quốc, vương quốc Chân Lạp có hai khu vực: Lục Chân Lạp
(vùng đất cao, thuộc địa bàn Campuchia ngày nay) và Thủy Chân Lạp (vùng đất thấp,
tức Nam
bộ).
Do hậu quả của hiện tượng biển tiến, đến các
thế kỷ xiii-xiv, vùng châu thổ Mékông-Đồng Nai vẫn còn là vùng trủng thấp, sình
lầy, thừơng xuyên ngập nước, hoang vu hầu như vô chủ, thổ dân Khmer chỉ cư ngụ
rải rác trên các gò, giồng cao. Sang thế kỷ xv-xvi, nước tiếp tục rút dần, phần
lớn vùng này trở nên cao ráo, mầu mở do phù sa của sông Đồng Nai, Mékông lắng tụ…dần
dần. Một vùng châu thổ rộng lớn, trải dài từ biển đông đến bờ vịnh Xiêm La cập
theo tuyến hải hành trên vùng biển Đông
Nam Á , có sức hấp dẫn, lôi cuốn một số thế lực trong khu vực lúc bấy vào cuộc
tranh giành, chiếm lĩnh. Tham gia vào cuộc tranh chấp này, ngoài người Xiêm, người
Việt còn có đám người Hoa lưu vong và cũng phải nói đến phản ứng của người
Khmer/Chân Lạp, người chủ trên danh nghĩa.
Để thủ thắng trong cuộc
đấu tranh xác lập chủ quyền trên đất này, một cuộc đấu tranh không có tiền lệ
trong lịch sử dân tộc, người Việt luôn đứng trước hoàn cảnh, thách thức gai go,
mới lạ, tiền nhân ta luôn phải tìm ra giải pháp đối phó phù hợp với từng đối
thủ, từng thời điểm.
1- Trước hết phải nói đến
phản ứng của người Chân Lạp trước tình hình này. Mặc dù họ đã chiếm vùng châu
thổ hạ lưu sông Mékông của Phù nam từ thế kỷ thứ viii, nhưng vì họ phải tập
trung phát triển vùng chính quốc (Lục Chân Lạp), lại phải thường xuyên đương
đầu với người Xiêm, nên ngay cả thời cực thịnh-Angkor, họ cũng không đủ sức người,
sức của và kỹ thuật để khai thác và khả năng quản lý vùng ngập nước ở hạ lưu
châu thổ sông Mê-kông. Mãi đến đầu thế kỷ xvii, khi lưu dân người Việt vào cư
ngụ ở Mô Xoài (Bà Rịa), Prei Nokor (Sàigòn)…ngày một
đông dần lên, tháng 4 năm 1674, khi Nặc-thu được Chúa Nguyễn ủng hộ lên ngôi
vua, chánh quyền vương quốc Chân Lạp mới cử Nặc-nộn làm Obareach [1]
(Phó vương hay nhị vương) xuống ngự ở Prey Nokor, để quản lý vùng dân cư thưa
thớt này [2].
Đây là động thái duy nhứt thể hiện chủ quyền của họ trên vùng đất Thuỷ Chân
Lạp. Nhưng đối chiếu với danh sách 41 tỉnh hạng nhứt, 7 tỉnh hạng nhì, 5 tỉnh
hạng ba và 3 tỉnh hạng tư của Chân Lạp thuở đó, thì không thấy ghi vùng này nằm
trong những tỉnh nào. Nói đây là đất vô chủ thì cũng không đúng hẳn; mà nói
rằng đây là tỉnh huyện nào của Chân Lạp thì cũng thật là không phải [3].
Sự
xuất hiện của người Việt trên đất Thuỷ Chân Lạp vào thế kỷ xvii, đưa nội bộ
hoàng gia Chân Lạp một tình thế mới. Nội bộ triều đình Chân Lạp vốn thường
xuyên chia rẽ tranh giành ngôi báu, trước đây người Xiêm lợi dụng tình trạng
này, can thiệp vào nội tình Chân Lạp để gặm nhấm dần đất đai phía tây nước này;
nhưng từ đây người Chân Lạp thường chia thành hai phe: một dựa người Xiêm, một
nương tựa vào người Việt trong cuộc xung đột nội bộ. Nhóm người Chân Lạp thân
Xiêm, thường nghe lời xúi dục, hoặc được người Xiêm trợ giúp nổi lên đánh đuổi
người Việt, cụ thể vào các năm 1731 (cướp Gia Định), 1739, 1767, 1770 (đánh Hà Tiên), 1755 (đánh ở vùng Vô-tà-ân, có thể là Đồng Tháp Mười)…nhưng
tất cả đều bị người Việt đánh tan. Với sách lược uyển chuyển, lúc cứng rắn khi
mềm dẻo của người Việt, hoàng gia Chân Lạp lần lượt cắt phần đất hoang vu mà họ
chỉ làm chủ trên danh nghĩa, để đền ơn người Việt đã bảo vệ ngai vàng, ngăn
chận sự xâm lược của người Xiêm giúp họ.
2 - Người Xiêm
(Tiêm/Siam/Thay) từ khi hình thành vương quốc Ayuthay (1353) luôn nuôi dưỡng ý đồ bành trướng về
phiá đông, các tiểu quốc Mã Lai như Keđa, Kêlantan, Trengganu, Patani…lần lượt
đều phải thần phục. Chân Lạp nằm trên đường tiến của họ, nên luôn bị áp lực
nặng nề và họ xem người Việt ở Thủy Chân Lạp là lực cản trên đường đông tiến
của họ.
Sau cuộc xâm lược của người
Miến, năm 1767, Trịnh Quốc Anh, người Xiêm gốc Hoa [4], khởi binh tự lập làm
vua, đổi tên nước Ayuthya thành vương quốc Xiêm, dời đô về Chalaburi, sau đổi
thành Bangkok (tức Vọng-các). Trung tâm kinh tế và chánh trị của Xiêm chuyển
dịch xuống vùng hạ châu thổ sông Chao Phraya, Chân Lạp vừa là mục tiêu vừa trở
thành vùng đệm trong chánh sách “Đông tiến” của người Xiêm [5]. Trịnh Quốc Anh buộc Chân
Lạp và Mã-lai thần phục. Các tiểu quốc Mã ngoan ngoãn tuân lịnh. Riêng Nặc-yêm,
quốc vương Chân Lạp dựa vào thế lực Đàng
Trong, không chiụ nộp cống. Năm 1715, Xiêm tấn công Nặc-yêm hai mặt. Một đánh vào Oudong, có nhiều người
thuộc phe Nặc-thâm (thân Xiêm) giúp sức, Nặc-yêm chống không lại, phải thần
phục Xiêm. Một đánh vào Hà Tiên, Mac Cửu cũng chống không nổi bỏ chạy, quân
Xiêm cướp phá Hà Tiên, nhưng chiến thuyền của Xiêm bị quân Chân Lạp đánh chìm,
nên họ phải rút về.
Năm 1771, Trịnh Quốc Anh
đích thân dẫn hai đạo binh đi “tiểu phạt”. Quân Xiêm đánh chiếm Hà Tiên và
Nam-vang, đưa Nặc-nộn lên ngôi và “có ý
dòm ngó thành Gia Đinh”. Nặc-tôn chạy sang cầu cưú chúa Nguyễn. Nguyễn Cửu
Đàm mang quân chống cự. Đến cuối năm
1772, quân Xiêm bị đánh bật ra khỏi Nam-vang, Trịnh Quốc Anh chạy về Hà Tiên,
rồi mang theo con của Mạc Thiên Tứ đưa về Xiêm. Nặc-tôn được ta đưa về nước làm
vua. Năm sau (1773) vâng lịnh chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tứ cho người sang xin
giảng hoà. Thấy thế lực Đàng Trong mạnh, Trịnh Quốc Anh phải rút khỏi Hà Tiên.
Năm 1777, cuộc khởi nghiã Tây Sơn nổ ra
Quy Nhơn, rồi lan dần vào Nam Bộ. Từ đây Nam Bộ thường xuyên thay đổi chủ, khi
Nguyễn Ánh, lúc Tây Sơn; đây là cơ hội tốt cho ngưới Xiêm thực hiện mộng bành trướng của họ. Hà Tiên trở thành ải địa đầu bảo vệ phiá tây
của Nam Bộ, nên chiến tranh thường xảy ra giữa Mạc Thiên Tứ và Trịnh
Quốc Anh. Đó là thời điểm quan hệ
ngoại giao giữ Xiêm và Gia Định vô cùng căng thẳng.
Năm 1779, lúc Nguyễn Ánh
tạm thời làm chủ Nam Bộ, đã đưa quân sang giải quyết việc tranh chấp ngôi vua ở
Chân Lạp và đưa Nặc-ấn lên ngôi. Trịnh Quốc Anh liền cử tướng Chakri (Chất-tri)
xâm lược Chân Lạp. Nặc-ấn cầu cứu Nguyễn Ánh. Năm 1782, Nguyễn Ánh cử Nguyễn
Hữu Thoại và Hồ Văn Lân đưa 3.000 quân sang Chân Lạp tiếp cứu. Chiến tranh chưa
ngã ngũ thì tướng Chakri bất ngờ mang quân về Xiêm giết Trịnh Quốc Anh , tự lập
làm vua, tức Rama I.
Sau khi bại trận ở Bến Nghé (tháng
3/1783), Châu Văn Tiếp lại sang Xiêm cầu viện. Tháng 12/1783, Phò mã Tây Sơn Trương
Văn Đa mang quân tấn công Chân Lạp, trong lúc Chiêu-thùy-biện (người Mã Lai) được
người Xiêm công nhận là phụ chính ở đây. Chiêu-thùy-biện chạy sang Xiêm cầu
cứu. Để giải toả áp lực Tây sơn, đồng thời nhân muốn cơ hội này thực hiện ý đồ
chiếm Gia Định, nên Rama I bám lấy Nguyễn Ánh.
Điều đó lý giải được sự
đáp ứng nhanh chóng của người Xiêm trước yêu cầu cứu viện của Nguyễn Ánh. Mặc
dù lúc bấy giờ Miến Điện chuẩn bị tấn công Xiêm, song Nhị vương Xiêm,
So-si, cũng không bỏ lỡ cơ hội may mắn này, vẫn sai hai cháu là Chiêu Tăng và
Chiêu Sương mang năm vạn quân cùng 200
chiến thuyền lên đường[6]. Nhưng cơ hội chiếm Gia
Định sớm trôi qua nhanh chóng với sự thảm bại của họ ở trận Rạch Gầm-Xoài Mút
vào đầu năm 1785, sự kiện này đã lưu lại trong lịch sử của nước họ một ấn tượng
sâu sắc. Có thể nói rằng trận Rạch Gầm-Xoài Mút, với thiên tài quân sự của
Nguyễn Huệ đã chận đứng tham vọng bành trướng về phiá đông của triều đại Chakri
I [7].
Nhằm thực hiện tham vọng Đông tiến của mình,
người Xiêm từ triều đại Trịnh Quốc Anh cũng như Rama thường tuân thủ theo đường
lối ngoại giao kết hợp với quân sự hết sức linh động, biết phát huy tiềm năng
kinh tế khu vực và lợi thế của vịnh Xiêm La thu hút các thương thuyền Á lẫn Âu.
Thấy được vị trí và tầm quan trọng của Thuỷ Chân Lạp (Nam Bộ) và cả Đàng Trong
nằm trên tuyến hải hành Đông Nam Á, nên người Xiêm có tham vọng đưa nó vào quỹ đạo
của họ, càng về cuối thế kỷ xviii, người Xiêm càng gây áp lực mạnh về phía đông[8]. Nhưng họ đành phải thúc
thủ trước một đối thủ đầy bản lĩnh. Các chúa Nguyễn tỏ ra rất mềm dẻo, khéo léo
trong quan hệ với người Xiêm, điều này thể hiện rõ trong các văn kiện ngoại giao vừa gợi lại mối
quan hệ truyền thống hữu hảo giữa hai nước vừa kiên quyết đập tan mọi hành vi
vi phạm chủ quyền và thái độ ngạo mạn của chánh quyền Xiêm[9].
.3- Chúng ta không phủ
nhận vai trò rất tích cực của các nhóm người Hoa “phản Thanh phục Minh” trong nhiều lãnh vực ở Nam Bộ, từ công cuộc
khai hoang đến phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và cả lãnh vực chánh trị ở
Nam Bộ. Nhưng cũng phải nhận rõ rằng phần lớn các nhóm người Hoa lưu vong này
ít nhiều đều có tham vọng cát cứ đất đai tranh hùng, xưng bá, nếu điều kiện, cơ
hội cho phép. Tình hình này diễn ra giống như thế lực người Hoa ở một số nước
Đông Nam Á. Thế lực này phân tán
thành nhiều nhóm nhỏ:
+ Nhóm Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch:
Hiền vương do dự trong việc chấp nhận cho
bọn Dương Ngạn Địch Trần Thượng Xuyên
nhập cư là có cơ sở. Ngoài lý do ảnh hưởng đến mối quan hệ ngoại giao với
Thanh triều, còn có nguyên nhân khác. Vì Dương Ngạn Địch tên là Dương Nhị,
trước khi sang Việt Nam tỵ nạn, có một thời là dư đảng của Trịnh Thành Công ở
Đài Loan, vốn là một tay cướp biển khét tiếng ở vùng biển phía nam Trung Quốc
hồi đầu nhà Thanh. Hoạt động của Địch là bảo vệ thương thuyền của họ Trịnh đi
buôn bán ở vùng Đông Nam Á và hỗ trợ Ngô Tam Quế, Tổng đốc Lưỡng Quảng đương
chống nhà Thanh. Khi cụôc Phản Thanh phục Minh lâm vào chỗ bế tắc (1681), Địch
sang Việt Nam
xin nương náu. Nhưng trước đó Dương Ngạn Địch có ý đánh chiếm Đàng Trong làm cơ sở xưng hùng xưng bá; song, thấy thế lực
Đàng Trong vững vàng, nên không dám ra tay[10]. Về sau (1688) Phó tướng
Hoàng Tiến giết chủ tướng Dương Ngạn Địch để thực hiện ý đồ này, nhưng sớm bị
người Việt phát hiện, cho phục binh bất ngờ đánh úp, Tiến chạy thóat rồi chết.
Chúa Nguyễn giao Trần Thượng Xuyên cai quản luôn binh Long Môn từ đó.
+ Nhóm Mạc Cửu ở Hà Tiên:
Trước nội tình Chân Lạp luôn rối
ren vì nạn tranh giành ngôi vua và thường bị người Xiêm khống chế. Mạc Cửu bỏ
chức Ốc Nha (thụôc chánh quyền Chân Lạp), xin tới cửa biển Péam (tức Phương
Thành và Hà Tiên sau này) để khai phá. Hà Tiên luôn bị bọn cướp biển và quân
Xiêm thường cướp phá và chính bản thân Mạc Cửu bị bắt ép về ở cảng Muang
Galapuri (Vạn Tuế sơn) [11].
Một thời gian sau ông lại lẻn về Hà Tiên tiếp tục công việc đang dang dở. Điều
đó cho thấy Mạc Cửu có một ý đồ xây dựng vùng đất này thành một cõi biên thùy
riêng. Sự
phát triển độc lập của Hà Tiên được người Trung Quốc đương thời nhìn nhận, họ
gọi là Hà Tiên là Cảng Khẩu (âm Quảng Đông là Cancao hay Cancar/Cẳn Kháo và trong
sách Thanh triều văn hiến thông khảo,
viết: “ Cảng Khẩu
là một tiểu quốc ở vùng Nam Hải,
dân xứ này thích văn chương chữ nghĩa sách vở thánh hiền. Xứ này có đền thờ Đức
Khổng phu tử, và cả trường học để dạy
các thanh niên. Sản phẩm có hải sâm, thịt cá, tôm khô…Năm Ung Chính thứ
7 của Thiên triều (1727) một đường thương mãi giữa xứ này và Quảng Đông được
thiết lập dài 7200 lý đường biển” [12]
.
Nhưng do tình
hình vùng vịnh Xiêm La và Thủy Chân Lạp luôn biến động, Hà Tiên khó có thể trở
thành một thương cảng, với tư cách một “công
quốc tự trị”, nên năm 1708, buộc lòng Mạc Cửu
phải dâng biểu xin nội thuộc Đàng Trong. Đây là một động thái khôn ngoan rất mực
của Mạc Cửu. Nếu không, Hà Tiên có thể là một phiên thuộc của Xiêm hoặc là một
vùng lãnh thổ tự trị của Chân Lạp. Cũng có ý kiến cho rằng, nếu không có
chúa Nguyễn, Hà Tiên có thể trở thành một Singapor trên đất liền [13].
Sau khi Hà Tiên nội thuộc
chúa Nguyễn, nó vẫn là vùng lãnh thổ tự trị. Năm Ất mảo, Mạc Cửu qua đời, con
là Mạc Thiên Tứ, tiếp tục được chúa Nguyễn phong làm Đô đốc trấn Hà Tiên. Bốn
năm sau khi Mạc Cửu mất, năm Kỷ mùi (1739), quốc vương Chân Lạp lúc bấy giờ là
Nặc-thâm, xua quân đánh chiếm Hà Tiên,
nhưng Mạc Thiên Tứ đẩy lui. Năm Kỷ mão (1769), bọn gia tướng phản phúc của Mạc
Cửu là Mạc Sùng, Mạc Khoan… muốn tách Hà Tiên rời khỏi Đàng Trong, đã liên kết
với tên cướp biển Xiêm gốc người Triều Châu là Trần Thái, âm mưu bán rẻ Hà Tiên
cho Xiêm, nhưng bị Mạc Thiên Tích diệt trừ.
Ngoài ra, trong thời kỳ
nội chiến Tây Sơn-Nguyễn Ánh phải nói đến tham vọng hùng cứ đất Thủy Chân Lạp của nhóm Lý Tài và
Tập Đình, nhóm Trần Quang ở Biên Hoà…
Những điều trình bày cho
thấy trước và trong khi lưu dân người Việt vào khai phá Thuỷ Chân Lạp, tình
hình ở đây khá phức tạp, là nơi đã từng diễn ra hàng loạt sự kiện:
-
Sự suy tàn của vương quốc Phù Nam;
-
Sự bất lực của Chân Lạp, Chiêm Thành;
-
Trước năm 1680, với xã hội tiểu nông tự cung tự cấp kiểu Sruk, Gramma truyền
thống, Chân Lạp không kéo được vùng này vào cương vực của mình;
-
Với kinh nghiệm của Trịnh Thành Công, Mạc Cửu cũng không biến Hà Tiên thành một
cảng thị với tư cách một “công quốc tự trị”bền vững…
Mà
chờ đợi, đến khi lưu dân người Việt vào, mới đáp ứng được yêu cầu:
-
Một cộng đồng người với khả năng và phẩm chất tinh thần;
-
Một phương thức phát triển lịch sử và một truyền thống sáng tạo văn hoá;
- Trong một tổ chức xã hội với
thiết chế quan hệ như thế nào đó…mới có khả năng đứng vững trên vùng đất này;
-
Một hoạt động thương nghiệp tiền tư bản kết hợp chặt chẽ với nền sản xuất nông
nghiệp và một tổ chức xã hội phù hợp giữa bối cảnh chánh trị-xã hội phức tạp ở
Đông Nam Á, với nhiều ý thức hệ khác nhau thể hiện qua lãnh vực tôn giáo-tín ngưỡng [14].
[1] Theo
thể chế hoàng gia Chân Lạp, đứng đầu hoàng gia là nhà vua, dưới vua có ba tước
vị: Upayuvareach (tức Thượng hoàng sau khi thoái vị, dùng lọng 6 tầng),
Obaeưach (tức là đệ nhứt hoàng thân hay phó vương, dùng lọng 5 tầng, thường kế
vị vua, sau khi băng hà), bà Mẫu hậu hoặc đệ nhất hoàng nữ, dùng lọng 4 tầng.
[2] Nếu lấy tỷ lệ người Khmer chưa bằng
1/10 người Việt (theo con số 146.718 Khmer/1.732.316 Việt, theo tài liêụ của
Pháp năm 1862), thì vào năm 1689, khi Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, người Khmer ở Nam Bộ chưa
vượt qua con số 20.000 ngưòi. Con số này được phỏng đóan từ con số 146.718 vào
năm 1862, tất nhiên là chưa chính xác; song, nó giúp chúng ta hình dung dân số
người Khmer ở Nam Bộ rất thưa thớt nếu không muốn nói là hoàn toàn hoang vắng
khi khi Việt vào.
3 Trần Văn Giàu (1987): Địa chí Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, tập
1-Lịch sử, Nxb TP.HCM, tr.236.
[4] Trịnh Quốc Anh là con một người Hoa kiều, gốc Triều Châu, tên Trịnh
Dung ( còn gọi là Yển), di cư sang Xiêm làm ăn, nhờ đánh bạc mà giàu có, sau kết hôn với một phụ nữ Xiêm
tên Nok Lang. Do giàu có và có thế lực nên được cử làm Phya (thủ lĩnh) ở Mường
Tát. Trịnh Quốc Anh sanh năm 1734, theo phong tục Xiêm, năm 12 tuổi, Trịnh Quốc
Anh phải vào chùa tu học. Anh rất thông minh, biết được tiếng Ấn, Hoa, Miến và
Việt. Năm 21 tuổi, Trịnh Dung qua đời, Anh về kế nghiệp cha và được cử làm Tổng
trấn Mường Tát. Năm 1763, quân Miến xâm lược Xiêm, bị quân của Trịnh Quốc Anh
chận đánh tại Patbury, không tiến về kinh thành Ayuthay được. Với chiến thắng này, Trịnh Quốc Anh được
triều đình biết đến và được nhà vua triệu về kinh tăng cường vịêc phòng thủ. Từ
đó Trịnh Quốc Anh phát triển thế lực.
[5] Nguyễn
Văn Kim (2006): Tham luận “Xứ Đàng Trong trong các mối quan hệ và tương tác
quyền lực khu vực” báo cáo tại hội thảo khoa học “Lich sử vùng đất Nam Bộ đến
cuối thế kỷ XIX” do Bộ KHCN tổ chức tại TP.HCM ngày 7-8/4/2006
[6] Hội
KHLSViệt Nam, Lược sử vùng đất Nam Bộ, Nxb Thế giới , 2006, tr.41.
[7] Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn…: Một số trận quyết chiến chiến lược trong
lịch sử dân tộc; “Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút”, Nxb.QĐND, 1976, tr.350.
[8] Nguyễn Văn Kim, Tlđd.
[9] Lê
Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Nxb.KHXH,
Hànội, 1977, tr. 261-272
[10] Nguyễn
Khoa Chiêm: Nam triều công nghiệp diễn chí,
Nxb Hội Nhà Văn, H. 2003, tr. 599-600
[11] Trần
Kinh Hoà: “ Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà
Tiên” Tạp chí Văn hóa Á châu, số 7, năm 1958.
[12] Bản
dịch của Emile Gaspardon (1952) , trong
bài “Un Chinois des Mers du Sud; Le Fondateur”. Trên tạp chí Journal Asiatique..
[13] Tạ Chí Đại Trường, Việt Nam thời Tây Sơn: Lịch sử nội chiến
(1771-1802), Sài Gòn, 1973, tr. 203
[14] Cao
Tự Thanh (1996 ), Nho giáo ở Gia
Định, NxbT.P. HCM, tr.232-235