Thông
tin tham khảo
Có người không hiểu cho
cái đó (giữ cầu đối thoại), có người trái tim nóng nhưng đầu không lạnh, thậm
chí một số ít người lợi dụng để kích động, vì những tính toán riêng..., còn công
tác tuyên truyền lại không kịp thời. Nên nhìn sự việc một cách thấu đáo, toàn
diện chứ cứ trách cứ nhau. Điều đó chỉ có lợi cho những người muốn "tọa
sơn quan hổ đấu", đứng xem chúng ta tranh luận, oán trách nhau. - nguyên
Phó Thủ tướng Vũ Khoan.
LTS:
Nhân kết thúc một năm với những sự kiện đối ngoại đáng chú ý, mục Gặp gỡ &
Đối thoại tuần này xin được giới thiệu cuộc trao đổi của phóng viên Tuần Việt
Nam với Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan xung quanh Năm Đối ngoại 2011.
Ông
Vũ Khoan là nhà ngoại giao hiếm hoi tham gia quá trình bình thường hoá và phát
triển quan hệ của Việt Nam với cả Trung Quốc, Mỹ và ASEAN.
Quan
trọng hơn, ông là một trong số không nhiều những vị lãnh đạo đã nghỉ hưu mà vẫn
dõi theo những tiến triển của thời cuộc, và đưa ra cho những người kế nhiệm,
nhất là trong lĩnh vực đối ngoại, những gợi mở quan trọng cho công tác hoạch
định chính sách. Hay như nhận xét của một quan chức ngoại giao đã tham dự Hội
nghị Ngoại giao vừa rồi tại Hà Nội, ông là một "forward thinker".
Cam kết
bằng giấy trắng mực đen
Theo
đánh giá của ông, sự kiện đối ngoại nào của Việt Nam được coi là quan trọng?
Năm
vừa rồi, mặc dầu ta tổ chức Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội song hoạt động đối
ngoại vẫn rất sôi động. Xét về trao đổi cấp cao thì nhiều đoàn đã đến thăm nước
ta và cũng không ít đoàn cấp cao của nước ta đi thăm nước ngoài. Mỗi đoàn đều
có ý nghĩa riêng.
Song,
theo tôi, sự kiện đáng chú ý nhất trong năm là việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đi thăm Trung Quốc.
Tại
sao, thưa ông?
Kết
quả mấu chốt của chuyến thăm là hai bên đã thỏa thuận và ký bản Thoả thuận 6
điểm về những nguyên tắc chỉ đạo cuộc đàm phán về những vấn đề trên biển.
Nếu
ta nhớ lại năm 2010, tình hình trên Biển Đông khá căng thẳng. Với cái thoả
thuận này, dù sao đi nữa cuộc tranh chấp cũng đã được đưa vào kênh đàm phán. Mà
đàm phán bao giờ cũng tốt hơn là xung đột, nó có lợi cho Việt Nam, có lợi cho
Trung Quốc, có lợi cho khu vực.
Trong
thời đại ngày nay, bất cứ vấn đề gì cũng nên tìm mọi cách giải quyết thông qua
thương lượng.
Một
vấn đề phức tạp như tranh chấp trên Biển Đông đã được đưa vào kênh thương lượng
là điều đáng ghi nhận.
Tại
sao ngay sau khi hai bên thoả thuận, lại đã gây ra một số hiểu lầm trong khu
vực. Chẳng hạn, Phi-lip-pin lên tiếng đòi giải thích. Liệu có phải do cách diễn
giải có chủ ý của truyền thông Trung Quốc, chẳng hạn như CCTV4, nói rằng Trung
Quốc và Việt Nam thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng đàm phán song phương?
Đây
là sự xuyên tạc thôi. Trong thoả thuận 6 điểm đã nói rõ cái gì liên quan đến
song phương thì giải quyết song phương, còn cái gì liên quan tới nhiều bên thì
giải quyết với các bên liên quan.
Đó
là vấn đề nguyên tắc và chúng ta luôn kiên trì ngay từ đầu, và cuối cùng đã
được đưa vào văn bản, được cam kết bằng giấy trắng mực đen đàng hoàng, chứ
không phải nói miệng, và được ký trước sự chứng kiến của lãnh đạo cấp cao nhất
của hai nước.
Theo
tôi được biết, sau chuyến thăm ta đã thông báo rõ ràng cho các nước hữu quan.
Là một nước đã từng bị thiên hạ dàn xếp sau lưng những vấn đề của mình không
phải một lần, chúng ta không bao giờ chấp nhận việc bàn thảo sau lưng các nước
khác những vấn đề liên quan tới họ.
Trước
đây, (tất nhiên gần đây có gián đoạn) cứ năm nay lãnh đạo cao cấp Việt Nam sang thăm,
thì sang năm sau lãnh đạo cấp cao Trung Quốc sang thăm lại. Tại sao TBT Nguyễn
Phú Trọng vừa thăm Trung Quốc vào tháng 9.2011, thì đến tháng 12.2011, Trung
Quốc lại cử ngay ông Tập Cận Bình - người được coi là sẽ kế nhiệm chức vụ đứng
đầu Đảng và Nhà nước, sang thăm Việt Nam?
Thường
xuyên gặp cấp cao đã trở thành truyền thống, không chỉ giữa hai nước Việt -
Trung mà là giữa nhiều nước trên thế giới. Dù sao đi nữa những cuộc gặp như vậy
là dịp các nhà lãnh đạo cao nhất trao đổi ý kiến, vạch ra phương hướng và biện
pháp lớn phát triển quan hệ, đồng thời trang trải khúc mắc, nếu có.
Các
cuộc gặp cấp cao giữa ta và Trung Quốc cũng nằm trong thông lệ đó. Giữa lúc
quan hệ có trục trặc thì những cuộc trao đổi như vậy càng cần thiết.
Quan
hệ giữa hai nước có lịch sử rất lâu dài và không đơn giản, lúc thăng lúc trầm.
Trong khi mọi chuyện diễn ra phức tạp, chúng ta càng nên bình tĩnh, tỉnh táo
theo phương châm "trái tim phải nóng, nhưng đầu phải rất lạnh".
Với
cái đầu lạnh và với truyền thống nghĩa tình trọn vẹn, chúng ta không quên sự
giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc trước đây trong các cuộc kháng chiến cứu nước,
đồng thời cũng nên thấy rằng, kể từ khi bình thường hóa quan hệ tới nay về tổng
thể mối quan hệ giữa hai nước đã phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt, những vấn đề
hắc búa như biên giới trên bộ, phân định vịnh Bắc bộ đã được giải quyết. Điều
này có lợi cho môi trường quốc tế của nước ta, có lợi cho vị thế của ta.
Chỉ
còn vấn đề Biển Đông, ta cần nỗ lực giải quyết thông qua thương lượng ngoại
giao. Thực ra chuyện này không mới, nó tồn tại từ lâu và đã từng nổ ra xung đột
quân sự năm 1974, 1988..., sau đó không ít lần xẩy ra căng thẳng. Chẳng thế mà
ASEAN có tuyên bố năm 1992 mà ta cũng tham gia (lúc đó mới là quan sát viên),
rồi DOC giữa ASEAN và Trung Quốc...
Nhưng
liệu người Việt Nam có thực sự là người mau quên ơn không, khi tình nghĩa với
người Nga ngày xưa vẫn được giữ gìn khá trọn vẹn? Buổi gặp gỡ thầy trò Nga -
Việt đầu năm ngoái, mà ông đã tham dự, chẳng hạn, đã thể hiện phần nào
điều đó.
Hay
là do, như có người nhận xét (nhà sử học Dương Trung Quốc) rằng chúng ta chưa
được sòng phẳng lắm với lịch sử, cả lúc thăng và lúc trầm trong quan hệ?
Tôi
không biết anh Dương Trung Quốc nói thế nào và có ý gì. Nhưng, cũng với cái đầu
lạnh, ta cũng phải thừa nhận một thực tế nữa là trong quan hệ giữa hai nước từ
giữa những năm '70 của thế kỷ trước đã xấu đi và năm 1979 đã xẩy ra chiến tranh
biên giới. Đó là một thực tế.
Chỉ
có điều mình chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai như mình cũng đã
từng ứng xử như vậy với Pháp, với Mỹ, với Nhật, Hàn quốc.... Khổ nỗi nước ta bị
nhiều nước xâm lấn quá, cứ nuôi hận thù trong tim thì làm sao sống được?
Tuy
nhiên, những chuyện lịch sử như vậy không dễ gì xóa hết, nhất là lúc này lúc
khác lại nẩy sinh phức tạp gợi lại nỗi niềm quá khứ. Do vậy ta mong các nước
"có vấn đề" với ta tránh để xẩy ra những việc gợi lại quá khứ mà làm
mọi việc vì tương lai hợp tác hữu nghị bình đẳng.
Liên
quan đến tranh chấp Biển Đông, có ý kiến cho rằng nói đến (tranh chấp) Biển
Đông là nói đến (tranh chấp) hai quần đảo. Trong khi đó, nhiều ý kiến cho rằng
vấn đề vùng nước mới là điều đáng lưu tâm, ít nhất là trước mắt. Ý kiến của
ông?
Có
ba câu chuyện ở Biển Đông và chúng đều quan trọng cả.
Thứ
nhất là Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, người mình đã ở đó bao nhiêu
năm rồi, nhưng bây giờ không còn trong tay mình nữa.
Thứ
hai là Trường Sa, mình đã hiện diện từ trước ở đó rồi, nhưng đến năm 1988 lại
xảy ra cuộc đánh chiếm một số điểm thuộc quần đảo này.
Thứ
ba là thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình đúng theo luật pháp quốc
tế, nhất là Công ước Luật biển năm 1982 mà cả mình và Trung Quốc đều đặt bút
ký, nhưng Trung Quốc đã khoanh thành cái lưỡi bò choán vào khá sâu, kể cả vùng
thuộc các nước khác theo luật quốc tế.
Chuyện
chủ quyền lãnh thổ chẳng có gì ít quan trọng cả.
Tôi
vẫn nói với phía Trung Quốc là xử lý nó phải có lý, có tình. Tình ở đây là tình
hàng xóm láng giềng, tối lửa tắt đèn có nhau. Còn cái lý là luật pháp quốc tế,
nhất là Luật biển 1982. Hai nước có quan điểm khác nhau mà không lấy một cái
chuẩn chung làm thước đo thì làm sao được? Cái thước đo duy nhất là luật pháp
quốc tế thôi - tức là Công ước Quốc tế về Luật Biển.
Anh
cũng ký, tôi cũng ký, đều là thành viên rồi. Cứ lấy chuẩn đó mà "cò
cưa" với nhau để làm rõ trắng đen, phải trái.
Có
một thực tế là ở Việt Nam, và cả ở Trung Quốc, đều có một xu thế đề cao chủ
nghĩa dân tộc dường như hơi thái quá. Vậy, theo quan điểm của ông, chúng ta nên
giải quyết như thế nào?
Chẳng
hạn, nói về thông tin. Tôi có cảm giác, có thể là sai, rằng giữa người lãnh đạo
với người dân dường như chưa có sự tin tưởng lẫn nhau. Dân thì cũng nghi hoặc
chuyện nọ chuyện kia, còn lãnh đạo thì dường như chưa hẳn đã tin dân?
Cũng
không phải thế. Bảo lãnh đạo không tin dân thì tin ai, làm sao lãnh đạo, điều
hành đất nước được? Làm gì có chuyện đó, nói thế thì "oan" quá.
Lãnh đạo mà có được người dân nhiệt tình yêu nước thì còn gì hơn!
Chỉ
có điều cách thể hiện lòng yêu nước sao cho có lợi nhất cho đất nước. Những
người thể hiện lòng yêu nước cao đẹp nhất là các chiến sĩ ở hải đảo không quản
ngại gian nan, giữ vững chủ quyền.
Tôi
vô cùng khâm phục họ, nhất là các chiến sĩ ở những điểm DK nhỏ xíu giữa biển
khơi mênh mông, sóng bão bịt bùng mà vẫn kiên định. Tôi cứ trộm nghĩ phong tặng
danh hiệu Anh hùng cho tất cả những người đó cũng xứng đáng!
Còn
một chuyện khác cũng cần có sự thông hiểu.Thực ra, trong quan hệ đối ngoại có
cái khó là không phải mọi chuyện đều có thể lên truyền hình bảo rằng chúng ta
đánh giá (thực chất) thế này, chủ trương thế kia. Làm sao làm thế được! Nói một
cách dân dã thì làm sao hành động theo kiểu "thưa ông tôi ở bụi này"
được?
Còn
làm thế nào để người dân hiểu rõ vấn đề thì có nhiều cách, nhưng chưa được sử
dụng kịp thời, sâu rộng.
Đặc
điểm của đối ngoại là có những chuyện phải giữ kín chứ không phải là dát, hay
sợ đâu. Vấn đề là phải khôn. Đừng lẫn lộn cái khôn với cái sợ. Không phải với
Trung Quốc đâu, với nước nào cũng vậy.
Do
đó cũng phải hiểu cho cái người lãnh đạo, người ta phải giữ cái gì đó để còn có
chỗ nói chuyện, chứ cắt cầu thì rất dễ. Bởi muốn gì thì gì mình vẫn phải cố
gắng giải quyết bằng đối thoại, nên phải giữ cầu đối thoại chứ.
Có
người không hiểu cho cái đó, có người trái tim nóng nhưng đầu không lạnh. Thậm
chí một số ít người lợi dụng để kích động, vì những tính toán riêng... Còn công
tác tuyên truyền lại không kịp thời.
Do
vậy, nên nhìn sự việc một cách thấu đáo, toàn diện chứ cứ trách cứ nhau. Điều
đó chỉ có lợi cho những người muốn "tọa sơn quan hổ đấu", đứng xem
chúng ta tranh luận, oán trách nhau.
Vâng,
quả là một phần cũng một phần do lỗi của những phóng viên như chúng tôi. Nhiều
khi chuyện chẳng có gì mà một số báo chí ở Trung Quốc, hay đâu đấy, lại đưa tin
theo hướng lệch đi, hoặc theo kiểu mập mờ, có lợi cho phía họ, thế mà anh em
chúng tôi lại không kịp thời cải chính lại cho mọi người hiểu.
Sự
phối hợp giữa các cơ quan báo chí và cơ quan quản lý báo chí cũng chưa được
nhịp nhàng, nên đúng là ta thường thông tin chậm hơn họ. Tôi cũng đã không ít
lần góp ý kiến rồi.
Vả
lại, ta nên tỏ ra đàng hoàng, chẳng nên để bị khiêu khích. Hơn nữa, rất nên tránh
vơ đũa cả nắm, gây hận thù dân tộc vì nhân dân là nhân dân.
Trong
công tác tuyên truyền, đấu tranh dư luận, phải rất nhanh nhạy, phân biệt phải
trái. Ngay khi chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, ta cũng luôn phân biệt giới cầm
quyền và nhân dân cơ mà.
Giáo
sư Carl Thayer, một chuyên gia về Đông Nam Á và Biển Đông, cũng từng nhận xét
rằng việc chậm trễ cung cấp thông tin chính thức và chính xác sẽ tạo cơ hội cho
những suy đoán, tin đồn lan ra trong dư luận.
Đúng
vậy. Các loại tin đồn thất thiệt cứ thế mà chen vào thôi. Anh không chiếm chỗ
trước, thì người khác người ta chiếm thôi.
Khôn
khéo tận dụng vị thế ASEAN
Thường
tâm lý của mấy ông nước lớn là thường muốn bắt nạt mấy anh nhỏ, lẻ, và trong
câu chuyện lãnh thổ và kinh doanh là rõ nhất. Quay lại câu chuyện tranh
chấp Biển Đông, nhưng mà mấy anh nhỏ đó không còn lẻ nữa, mà cùng nhau góp
tiếng nói cho đàng hoàng, chắc ông lớn kia cũng phải hạ giọng.
Thế
giới bây giờ là tuỳ thuộc lẫn nhau, chứ không phải là lớn với nhỏ đâu. Tất
nhiên anh lớn có tư duy của anh lớn, cách hành xử của anh lớn. Nhưng anh chả
sống một mình được, anh vẫn phải đối xử với những anh lớn khác. Mà muốn thế
phải có bạn.
Như
vậy, cái mạnh của anh nhỏ là có thể trở thành đối trọng trong quan hệ của các
nước lớn. ASEAN đâu phải là đối trọng nhỏ. Cũng hơn 500 triệu dân, cũng là một
khu vực phát triển kinh tế năng động, cũng có uy tín quốc tế lớn.
Có
tổ chức khu vực nào mà cả gần chục nguyên thủ các nước lớn phải xách cặp
đến họp không, trừ ASEAN? Liên đoàn Ả Rập, hay Mecosur ở Mỹ La tinh có chuyện
đó không? Thậm chí là EU cũng làm gì có chuyện mỗi lần họp là Tổng thống Nga,
hay Chủ tịch Trung Quốc phải sang.
Trên
bàn cờ quốc tế, trong các mối quan hệ giao lưu, họ cần có bạn đồng hành. Và các
nước nhỏ có vai trò đó, nếu anh biết ứng khôn khéo. Và ASEAN là một điển hình.
Về
vấn đề giải quyết tranh chấp Biển Đông, tuy là lâu dài, thậm chí rất lâu dài,
nhưng vẫn phải có cái hướng đi từ đầu để vượt qua chặng đường dài đó để đến cái
đích cuối cùng. Trong ASEAN chỉ những quốc gia biển là hoặc trực tiếp, hoặc
gián tiếp, dính dáng đến tranh chấp, chứ còn mấy quốc gia đất liền thì không có
lợi ích gì.
Ông
nhìn nhận gì trong sự gắn kết gần đây giữa họ, chẳng hạn như giữa Việt Nam với
Ma-lai-xia, hay gần đây là Việt Nam với Phi-lip-pin, trong lập trường giải
quyết tranh chấp Biển Đông?
Trong
quan hệ quốc tế lợi ích là quan trọng nhất. Trong điều kiện khách quan, các
nước ASEAN buộc phải chia sẻ lợi ích với nhau. Mặc dù, trên vấn đề này thì nhóm
nước này có lợi ích này, nhóm khác có lợi ích khác. Nhưng lợi ích lồng ghép
nhau chứ không rành rọt như cái bánh cắt được.
Như
vậy, không thể nói chỉ có trên Biển Đông mới thể hiện lợi ích đâu. Còn bao
nhiêu lợi ích nhằng nhịt khác nữa. Biển Đông chỉ là một khía cạnh của quan hệ
ASEAN thôi.
Ý
tôi muốn hỏi là trong mỗi lợi ích mình phải tìm những người bạn, những người
cùng có lợi ích với mình, khi nói tới các mối quan hệ của Việt Nam với các quốc
gia khác trong ASEAN.
Mình
có lợi ích của mình thì cũng đừng bắt người ta bỏ lợi ích của người ta. Phải
biết người biết ta, chứ chỉ biết ta, thì không có quan hệ quốc tế.
Cuối
năm ngoái, một quan chức phụ trách ASEAN của Bộ Ngoại giao, có nói với tôi rằng
cái nét mới của năm ASEAN 2010 so với những năm trước đó là bình thường hoá
khái niệm nhạy cảm. Tức là vấn đề tranh chấp Biển Đông được đưa ra bàn thảo các
hội nghị lớn như Thượng đỉnh ASEAN, Diễn đàn An ninh Khu vực (ARF), hay Thượng
đỉnh ASEAN - Trung Quốc...
Trước
đó, khi đưa vấn đề Biển Đông ở những diễn đàn như vậy, có cảm giác là mình thấy
nó nặng nề, nhạy cảm thế nào đó...
Cũng
không hẳn đâu. Thời tôi làm cũng đã vật lộn với vấn đề Biển Đông bao nhiêu lâu
rồi, chứ có phải không đặt lên bàn quốc tế đâu.
Năm
1995, khi mình vào ASEAN đúng lúc ARF ra đời, nên tôi đã dự ARF ngay từ đầu.
Câu chuyện Biển Đông cũng đã được đặt lên bàn rồi. Năm nào cũng bàn để từ đó
dẫn đến DOC năm 2002.
Còn
khi có tuyên bố Manila năm 1992, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm tham dự với tư cách
quan sát viên đã tuyên bố ủng hộ.
Có
lẽ lúc đó mình là chủ nhà của ARF và các hội nghị cấp cao nên câu chuyện được nhấn
mạnh đặc biệt, đúng không ạ?
Đúng
vậy. Chứ mình lẽo đẽo vấn đề Biển Đông từ lâu rồi, vì nó là một vấn đề có thể
gây mất ổn định trong khu vực.
Thế
còn câu chuyện trùng lặp về thời gian giữa chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng sang Trung Quốc để đạt thoả thuận 6 điểm về nguyên tắc giải quyết
tranh chấp, và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Ấn Độ, mời họ vào hợp tác thăm
dò khai thác dầu khí ở Biển Đông, hay hợp tác quốc phòng. Trong khi đó, Trung
Quốc nói gần nói xa nọ kia, ông đánh giá thế nào?
Điều
đó có được coi là bình thường hoá khái niệm nhạy cảm không?
(Bật
cười) Theo tôi hiểu, chuyện sắp xếp qua kênh ngoại giao là hoàn toàn ngẫu nhiên
thôi, chứ có phải mình bầy binh bố trận gì đâu. Ầm ỹ là do suy diễn thôi.
Mình
hiểu rõ chẳng ai muốn làm "con bài" của ai, và mình cũng không chủ
trương đi với bên này chống bên kia.Trong đối ngoại, anh làm cái gì
"phô" quá cũng không được đâu, người ta cười cho. Phải nhớ rằng không
chỉ có mình là "khôn" đâu.
HUỲNH
PHAN
Theo
tuanvietnam.vietnamnet.vn
http://biengioilanhtho.gov.vn/vie/quanheviet-trung2011-nd-ab691386.aspx