12 tháng 1, 2012

KHU DI TÍCH GÒ THÁP (ĐỒNG THÁP) TRONG BỐI CẢNH VĂN HOÁ ÓC EO

                                                                                Nguyễn Thị Hậu

Những năm gần đây, trong các công trình nghiên cứu khảo cổ học đã thể hiện ngày càng rõ hơn cách / hướng tiếp cận những nền văn hóa khảo cổ từ việc nghiên cứu môi trường sinh thái tự nhiên – cũng là môi trường sống của chủ nhân trong quá khứ của những nền văn hóa ấy. Không phải ngẫu nhiên mà khi nói đến văn hóa Oc Eo –  một nền văn hóa cổ phát triển từ đầu Công nguyên đến TK VII và truyền thống của nó còn kéo dài đến thế kỷ X –  những nhà nghiên cứu thường gắn địa bàn phân bố của nó với đồng bằng sông Cửu Long – Tây Nam bộ, mặc dù hiện nay đã phát hiện một số di tích văn hóa Oc Eo ở lưu vực sông Đồng Nai thuộc miền Đông Nam bộ.

Môi trường tự nhiên của văn hóa Oc Eo chủ yếu là miền Tây Nam bộ. Vùng sinh thái Tây Nam bộ được chia làm 3 tiểu vùng: tiểu vùng Thượng châu thổ Cửu Long, tiểu vùng Hạ châu thổ và tiểu vùng Đất mới ven biển Tây Nam bộ. Cảnh quan chung của cả 3 tiểu vùng là sông rạch, đầm đìa, bưng biền xen với những giồng, gò nổi cao giữa đồng bằng trũng ngập nước hàng năm và một vài ngọn núi thấp như Núi Sam, Núi Sập, Bảy Núi, Ba Thê. Đồng bằng sông Cửu Long chịu ảnh hưởng rất lớn của các đợt biển tiến thời Holocene từ khoảng 5000 năm TCN đến khoảng 1200 năm (TK XII) sau Công nguyên. Thời kỳ trước Công nguyên biển tiến Holocene đã ngăn chặn sự lan tỏa của văn hóa Đồng Nai xuống đây, vì vậy ở miền Tây Nam bộ tìm thấy khá ít ỏi di tích khảo cổ thời Tiền sử. Chỉ đến khi nước biển rút thì các nhóm cư dân bản địa của văn hóa Đồng Nai bắt đầu mở rộng địa bàn cư trú xuống vùng này cùng với một bộ phận cư dân từ hải đảo vào. Liên quan đến thời kỳ văn hóa Oc Eo là biển tiến Holocene IV bắt đầu từ giữa TK IV và đạt đỉnh cao vào giữa TK VII, sau đó biển rút dần trả lại bề mặt đồng bằng vào khoảng TK XII. Hiện nay ở Nam bộ còn lại các phế tích kiến trúc đền tháp, di tích cư trú kiểu nhà sàn kéo dài dọc sông rạch, di tích cư trú trên các giồng gò cao giữa đồng bằng…Các cuộc khai quật từ thời L.Malleret (1944) đã tìm thấy dấu tích khoảng 30 “đường nước cổ” là các kênh đào ngang dọc ở vùng tứ giác Long xuyên. Đây vừa là hệ thống đường giao thông lợi dụng thủy triều ra vào cảng thị Oc Eo, vừa là hệ thống thủy lợi thoát nước trong mùa nước nổi ở đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây khảo cổ học đã phát hiện những cổ vật qúy giá, nhiều di vật như tượng thờ ngay trong các di tích đền tháp, mộ táng, vật dụng phục vụ sinh hoạt vật chất, sinh họat tinh thần tồn tại ngay trong địa tầng văn hóa (in-situ)… Đây là một trong nhiều nguyên nhân làm cho các di tích của nền văn hóa Oc Eo rực rỡ “đột ngột biến mất”. Tuy nhiên, từ sau TK VII trên toàn Nam bộ vẫn tồn tại “truyền thống văn hóa Oc Eo” đến tận TK X – XIII.

Trong thời kỳ hình thành và phát triển của văn hóa Oc Eo (từ TK I đến TK VII) khu vực trung tâm Oc Eo – Ba Thê  được nhìn nhận là một (trong nhiều) cảng thị của vương quốc cổ Phù Nam, trạm dừng chân quan trọng trên tuyến đường biển nối liền Nam Á và Bắc Á với hai trung tâm văn minh lớn của nhân loại là An Độ vàTrung Hoa. Khu vực này là một phần của tiểu vùng Thượng châu thổ Cửu Long (phần còn lại là Đồng Tháp Mười). Cũng như tất cả các vùng thượng châu thổ khác, tiểu vùng này tương đối cao, từ 2 – 4m, nhưng lại bị ngập lụt vào mùa mưa nhiều hơn là tiểu vùng Hạ châu thổ. Mùa nước nổi ở đây từ tháng 6 trở đi và vào khoảng tháng 9 thì đạt đến mức cao nhất, khu vực tứ giác Long Xuyên ngập nhiều hơn Đồng Tháp Mười nhưng nước không đọng lâu mà theo mạng lưới kênh rạch rất dày đổ ra vịnh Rạch Giá – vào thời kỳ nước lớn cứ mỗi giây lại có khoảng 5000m3 nước lũ đổ vào bồn này để chảy ra biển Tây Nam bộ. Vì vậy tiểu vùng này được coi như một hồ chứa và xả nước tự nhiên của sông Hậu, làm giảm bớt sự ngập lụt ở Hạ châu thổ.

Để có thể tồn tại và phát triển, cư dân Oc Eo – điển hình là tại tiểu vùng thượng châu thổ – đã tạo dựng một lối sống thích hợp với những điều kiện đặc thù, biết và dám chấp nhận đồng thời khai thác những mùa nước nổi, nước lên theo chu kỳ hàng năm để mang lại nguồn lợi cho mình. Đặc điểm nổi bật của cư dân văn hóa Oc Eo là lối cư trú trên nhà sàn ven hệ thống sông rạch tự nhiên và nhân tạo, hoặc chọn các gò, giồng cao xây dựng những trung tâm sinh hoạt tinh thần, mở rộng khu vực xung quanh làm nơi cư trú, tiến đến mở rộng địa bàn canh tác. Cư dân cổ đã duy trì và phát triển cuộc sống này, trở thành một “truyền thống” thể hiện qua hệ thống di tích kiến trúc và những di vật khảo cổ có niên đại từ đầu Công nguyên đến thế kỷ X – XII.

 Đồng Tháp Mười  (Tháp Mười,  Đồng Tháp) – những địa danh nổi tiếng này đều bắt nguồn từ tên gọi một khu di tích phân bố trong vùng trung tâm của Đồng Tháp Mười: khu di tích Gò Tháp thuộc thời kỳ văn hóa Oc Eo, trong đó di tích Gò Tháp nằm trên một gò cao đến 6m (so với mực nước biển).

Đồng Tháp Mười nằm ở phía Bắc của đồng bằng sông Cửu Long, giới hạn phía Tây Nam bởi sông Tiền và phía Bắc là dải đất chuyển tiếp giữa vùng phù sa cổ và phù sa mới, có thể lấy sông Vàm Cỏ Đông làm ranh giới. Toàn bộ vùng trũng lầy này rộng mênh mông, dài khoảng 130km, rộng 60 - 70km, diện tích chừng 8000km2, chiếm khoảng 1/5 diện tích châu thổ sông Cửu Long (khoảng 40.000km2) và bằng hơn  ½ châu thổ Bắc bộ (15.000km2). Cảnh quan tự nhiên ở đây là những gò đất cao nằm rải rác trên vùng đất lầy thấp. Các gò đất này cấu tạo bằng cát và sét nặng, theo cả chiều ngang và chiều thẳng đứng người ta đều có thể quan sát thấycó sự sắp xếp đều đặn giữa cát và sét: cát thường nằm phủ lên trên còn sét bắt đầu thấy từ 0,3 – 0,4m trở xuống. Cả hai tầng này đều có dạng uốn cong kiểu “lưng lừa” và có màu xám nhạt. Có thể nhận thấy các gò này là phần cao nhất của bậc thềm phù sa cổ, còn chính bậc thềm này lại nằm thấp hơn chừng 1 – 2m. Như vậy, bề mặt của thềm phù sa cổ bị chia cắt mạnh mẽ, các sông có lòng khá sâu, như sông Vàm Cỏ Tây đoạn gần Mộc Hóa có “thung lũng” sâu đến 10 – 15m. Dọc các con sông là thung lũng phù sa và tiếp đến là vùng trũng của Đồng Tháp Mười, gồm hai khu vực: khu vực thứ nhất là những dải đất dọc theo sông Tiền, tuy thấp nhưng không lầy lội, làng mạc tập trung trên các “giồng đất” cao và dọc theo kênh rạch. Khu vực thứ hai là cảnh quan chính của Đồng Tháp Mười, là một “bồn trũng” có độ cao thay đổi từ 0,5 – 3m nhưng trông gần như bằng phẳng. Bề mặt phù sa mới phủ lên nền phù sa cũ ngày càng dày. Phần lớn lớp phù sa này đã lắng đọng trong môi trường nước lợ và sét, vì vậy độ pH ở đây rất thấp. Trong vùng Đồng Tháp Mười có thể phân ra 3 khu vực ngập nước khác nhau nên đã được khai thác ở những mức độ khác nhau. Xuyên qua lớp phù sa mới ta có thể nhận thấy các sông rạch chảy trong vùng trũng này đã đổi dòng nhiều lần, bằng chứng là các thấu kính đất có thành phần cơ giới nhẹ hơn phân bố theo những tuyến nhất định , đánh dấu các lòng sông rạch hóa thạch cũ. Vào mùa khô Đồng Tháp Mười mọc đầy các loại cỏ năng, lát, bàng, láng sen, đìa lau sậy… nhưng vào mùa mưa nhất là từ tháng 9, nước từ các Vàm Cỏ Đông – Tây và sông Tiền tràn vào làm vùng trũng ngập sâu đến 2 – 3m, biến cả một vùng rộng lớn này thành một biển nước mênh mông, lấp ló những vạt lúa nổi và đây đó vài gò cao chơ vơ nổi lên. Đây chính là cảnh quan môi trường sinh sống của con người từ thời xa xưa, mà một trong những dấu tích điển hình là khu di tích Gò Tháp.

 Khu di tích Gò Tháp  được biết đến từ những năm cuối thế kỷ XIX và vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu người Pháp đã đến đây khảo sát và công bố những phát hiện quan trọng về một số dấu tích kiến trúc cổ, tượng thờ, bia đá và văn tự cổ…Từ sau năm 1975 khu di tích này được các nhà khảo cổ học Việt Nam đặc biệt quan tâm, đã tiến hành khảo sát, đào thám sát và khai quật nhiều lần. Đến nay, có thể nhận biết quy mô và tính chất của khu di tích Gò Tháp gồm 3 loại hình là di chỉ cư trú, di tích kiến trúc và di tích mộ táng. Ngoài những phát hiện của các học giả Pháp, xin điểm lại một vài di tích tiêu biểu được phát hiện và có những nghiên cứu mới từ sau năm 1975.

- Di chỉ cư trú Gò Minh Sư:  Đã được khai quật 3 lần. Dấu tích cư trú phân bố dưới chân gò và rộng khắp cánh đồng thấp xung quanh. Cuộc khai quật tháng 1/2001 đã phát hiện một khu cư trú cùng mộ táng có địa tầng còn nguyên vẹn cách chân Gò Minh Sư khoảng 120m về phía Đông Nam. Trong di chỉ tìm thấy nhiều di vật đá nhưng hiện vật chiếm tỷ lệ nhỏ. Đồ đất nung gồm mảnh ngói, tượng khỉ, dấu ấn, mảnh phù điêu, vòi yoni…Đồ gốm khá phong phú, có tới hơn 18.000 mảnh, gồm các loại bình, vò nồi, nhiều mảnh lớn có thể phục nguyên được, có lẽ đây là những hiện vật nguyên vẹn đã bị sụp vỡ do dây là khu di chỉ cư trú và mộ táng. Một số lớn các bình vò, nồi lớn đã được dùng để đựng than tro hỏa táng – như trong mộ M1: chiếc vò đựng xương tro có hình quả lê, cổ trụ, vành miệng đã mất, vai xuôi thân phình tròn, thu dần xuống đế hình vành khăn thấp. Gốm mịn màu ngà vàng, xương trắng xám lẫi ít sỏi laterit. Một vò khác có xương đen, chắc mịn, áo màu đỏ gạch loang lổ. Việc xuất lộ vò gốm chứa than tro, đặc biệt mật độ dày đặc của các cụm bình vò cho thấy đây là phát hiện đầu tiên về một khu mộ táng khá tập trung trong văn hóa Oc Eo. Tại di tích Linh Sơn Nam (Ba Thê – An Giang) trong cuộc khai quật của trường Viễn Đông bác cổ và TT Khảo cổ học Viện KHXH TPHCM cũng xuất lộ vò chứa than tro nhưng đơn lẻ và có tính chất khác biệt về hình thức chôn cất cũng như niên đại so với di tích  mộ táng ở Gò Minh Sư.

Trong cuộc khai quật lần thứ hai di tích này vào tháng 3/2002, những người khai quật đã phát hiện nhiều hố mộ phân bố trên thềm laterit hoặc chồng chéo lên nhau. Chúng có dạng hố đào hình lòng chảo hoặc hình phễu, đáy lót cát hoặc có thêm lớp đất sét xám xanh bên dưới. Bên trên có các đồ gốm vỡ, xương thú, than tro, sỏi nhỏ và nhiều hiện vật khác…Bên cạnh hiện tượng hỏa táng có thể đã tồn tại hiện tượng hung táng hay bán hung táng. Ngoài số lượng gốm khổng lồ và nhiều loại hình hiện vật khác đã được phát hiện gồm các chất liệu đá, xương, thủy tinh, kim loại, gỗ…còn phát hiện xỉ thủy tinh, xỉ kim loại, cốc rót kim loại, mảnh vỡ của các tấm đá…cho thấy sự phát triển của nhiều nghề thủ công ở đây. Đặc điểm và địa tầng Gò Minh Sư cho thấy di chỉ được sử dụng cư trú và chôn cất trong một thời gian rất dài, khoảng từ TK I đến TK VIII sau CN.

Lần thứ 3 khai quật di tích Gò Minh Sư (4/2003) đã làm rõ thêm các đặc điểm của di chỉ cư trú kiêm mộ táng của di tích. Hình thức cư trú theo mùa được nhận thức khá rõ, cư trú trên các đồi gò thấp bên cạnh các lạch trũng nhỏ và quá trình bồi đắp để mở rộng diện tích sử dụng là một đặc điểm phổ biến của giai đoạn văn hóa Oc Eo ở đây. Bên cạnh các di vật Oc Eo điển hình, một số di vật ngoại nhập còn có những mảnh gốm có đặc điểm của thời tiền sử, cho thấy di tích này trong khu di tích Gò Tháp không chỉ là một trung tâm văn hóa Oc Eo phát triển, có mối quan hệ rộng rãi với thế giới bên ngoài mà còn có lịch sử phát triển lâu đời hơn những gì đã biết đến nay.

Ngoài di chỉ cư trú ở chân Gò Minh Sư, trong khu di tích Gò Tháp còn có một số di chỉ khác như Miếu Bà chúa Xứ, Đìa Phật, Đìa Vàng, khu mộ Đốc Binh Kiều, một vài gò nhỏ xung quanh…trong các di chỉ này tìm thấy vết tích bếp lửa, mảnh gốm ám khói, than củi, phế thải bếp núc, xương trâu bò, vỏ dừa, hạt luá, trái cây, gỗ có vết gia công, nhiều cọc gỗ nhà sàn, đặc biệt nhiều tượng Phật bằng gỗ và có dấu hiệu của một xưởng thủ công chuyên chế tác loại tượng này…Niên đại của những di chỉ cư trú này kéo dài từ thời kỳ Tiền sử muộn đến thời kỳ văn hóa Oc Eo. Cùng với những di chỉ cư trú khác trong vùng Đồng Tháp Mười thuộc tỉnh Long An, nhóm di chỉ cư trú ở khu di tích Gò Tháp đã mang lại nhiều tư liệu mới để tìm hiểu về chủ nhân văn hóa Oc Eo.

- Di tích kiến trúc: gồm dấu tích kiến trúc ở Gò Tháp, gò Bà Chúa Xứ, gò Minh Sư, Tháp Mười cổ tự, lăng mộ Đốc Binh Kiều. Các kiến trúc ở đây rất đa dạng, gồm kiến trúc đền mộ có bình đồ chữ nhật khép kín, tường vách bên trong xây giật cấp, kiến trúc bình đồ chữ nhật bẻ góc hai đầu Đông – Tây, quanh tường có gờ cột giả. Trung tâm có cấu trúc vuông sâu từ bề mặt xuống đến đáy. Loại kiến trúc này có thể thuộc thời kỳ sau Oc Eo. Ngoài ra còn có dấu vết của những bờ tường gạch dài vài chục mét, bờ tường xây chìm dưới đất. Trên 10 kiến trúc mộ táng có cấu trúc trung tâm xây gạch, gồm huyệt mộ vuông, giữa là một trụ gạch vuông sâu đến đáy, nằm trong khuôn viên hình chữ nhật.

- Kiến trúc Gò Tháp: Gò Tháp cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng 3,8m, diện tích chừng 4500m2. Từ những cuộc khảo sát của L.Malleret đã phát hiện trên gò có nhiều gạch và hàng chục khối đá lớn, yoni, cột… (như 3 cột lớn bằng đá hoa cương mặt cắt ngang hình vuông cạnh 0,48m, dài 1,56m, 1,10m và 1,42m, một đầu có chốt đầu kia có mộng để ghép nối theo chiều cao). Dấu tích rõ ràng nhất là kiến trúc gạch dài 17,30m theo hướng Đông – Tây, rộng 12m (Bắc – Nam), cạnh bẻ góc, đối xứng hai phần Bắc – Nam, cho thấy kiến trúc khá quy mô và có liên quan đến nhiều kiến trúc khác xung quanh. Di vật gồm những mảnh gốm bình ấm có vòi, một số mảnh vỡ của Yoni, tượng Visnu, khuông đúc, đặc biệt có 2 tượng Visnu rất đẹp tuy không nguyên vẹn.

-  Kiến trúc Gò Bà Chúa Sứ: Khai quật năm 1984 đã đưa ra khỏi lòng đất một kiến trúc khá lớn nằm trong lòng gò: kích thước 20,90 x 13,40m có cạnh bẻ góc dài ngắn khác nhau. Phần nền và móng có những ô vuông xây gạch, có chỗ dày đến 1,4m. Phần kiến trúc bên trên đã bị phá hủy hoàn toàn. Căn cứ vào dấu tích nền móng và những mảnh đá kiến trúc để lại, có thể nhận biết đây là một đền thờ Hindu giáo được xây dựng khá chuẩn mực, có niên đại vào TK VI.

Nếu so với những khu di tích khác của văn hóa Oc Eo thì khu di tích Gò Tháp tương đương về quy mô, số lượng và loại hình di tích. Các cuộc điều tra còn ghi nhận dấu tích của nhiều con kinh đào cổ từ khu vực di tích này tỏa đi nhiều di tích khác trong Đồng Tháp Mười như Gò Đế, Gò Hàng, Gò Bảy Liếp, Đìa Tháp, Gò Vĩnh Châu A…

- Cổ vật quan trọng trong khu di tích Gò Tháp. Hiện vật trong di tích kiến trúc và mộ táng vô cùng phong phú về chất liệu, độc đáo về loại hình và kiểu dáng, Chúng tôi muốn nhắc đến những hiện vật vàng, nhóm các pho tượng Phật bằng gỗ và 2 bia đá có minh văn.

Nhóm hiện vật vàng ở Gò Tháp có đến 321 mảnh, chạm khắc hình tượng các vị thần, linh vật, hoa văn…Từ các cứ liệu C14, văn khắc và tiếu tượng học những mảnh vàng này đã cho biết niên đại của chúng không đồng nhất, thể hiện ảnh hưởng từ nền văn hóa An Độ trong thời gian khá dài, từ TK IV – V trước Công nguyên đến TK V sau CN.

Khu di tích Gò Tháp nổi tiếng với các pho tượng Phật bằng gỗ –  di vật đặc trưng của nghệ thuật Phật giáo trong văn hóa Oc Eo. Tuy phần lớn tượng Phật gỗ được phát hiện ngẫu nhiên trong khi đào đìa, làm ruộng nhưng số lượng lớn, sự phong phú và đa dạng về kích thước và kiểu dáng vừa phản ánh sự tiếp thu các ảnh hưởng của nghệ thuật mới, vừa bộc lộ nét bàn địa chân chất, giản dị trong chất liệu tạc tượng là nguồn nguyên liệu gỗ dồi dào tại chỗ. Chất liệu gỗ mù u làm nên các pho tượng này vừa bền vững đồng thời vẫn thỏa mãn được sự sáng tạo, tính đa dạng của nghệ nhân Oc Eo, tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo ở đây. Thế kỷ V – VII là thời kỳ phát triển rực rỡ của điêu khắc Phật giáo bản địa mà sưu tập tượng Phật bằng gỗ ở vùng Đồng Tháp là một minh chứng.

Cho đến nay trong số các bia đá mang nội dung phản ánh về vương quốc Phù Nam có 1 tấm bia (ký hiệu K5) tìm thấy ở khu di tích Gò Tháp, được các nhà nghiên cứu định niên đại vào thế kỷ V. Nội dung văn bia thấm đượm tinh thần Hindu giáo, chi phái Visnu là tôn giáo phổ biến song hành cùng Phật Giáo trong văn hóa Oc Eo. Quan trọng nhất là văn bia còn cho biết, chính đây là vùng đầm lầy được chinh phục bởi vua Phù Nam Jayavarman và phong cho con trai là Gunavarman cai quản.

Quy mô kiến trúc, nội dung phản ánh của sưu tập di vật và hệ thống đường giao thông thủy trong khu di tích Gò Tháp đã cho thấy, khu vực này từng là một trung tâm tôn giáo – văn hóa quan trọng từ TK IV đến TK VIII, không chỉ của vùng Đồng Tháp Mười mà còn của chung đồng bằng sông Cửu Long. Cuộc sống của cư dân thời cổ thể hiện rõ nét quá trình thích nghi với môi trường sinh thái tự nhiên. Tính chất thích nghi không chỉ là sự “nương nhờ”, khai thác tự nhiên một cách thuần tuý mà còn là quá trình tạo nên môi trường sinh thái nhân văn – cảnh quan lao động sản xuất, nơi cư trú, các công trình kiến trúc… Khảo cổ học dựa vào những di tích di vật phát hiện được để nghiên cứu về đời sống con người trong quá khứ, tất nhiên, chỉ hiểu biết được một phần vì những gì còn lại cũng vô cùng ít ỏi. So với nhiều di tích khảo cổ, khu di tích Gò Tháp là nơi phát hiện một số lượng lớn di vật nhiều loại hình, từ vật dụng sinh hoạt trong di chỉ cư trú đến vật dâng cúng quý giá trong các đền tháp, vật tùy táng linh thiêng trong những ngôi mộ, từ các phế tích kiến trúc đền tháp và tượng thờ, minh văn đến di tích nhà ở, nền bếp… Tổng thể di tích và di vật phản ánh quá trình tụ cư, hoạt động kinh tế – văn hóa – tôn giáo và các mối quan hệ giao lưu trong một thời gian dài khoảng 10 thế kỷ. “May mắn” là môi trường tự nhiên và nhân văn của khu di tích này (và nhiều di tích văn hóa Oc Eo khác) vẫn không/ chưa biến đổi nhiều so với trước kia. Điều đó giúp ta hình dung được phần nào cuộc sống của chủ nhân những di tích và di vật nơi đây. Trong môi trường sinh thái “bưng biền Đồng Tháp” cư dân cổ  đã xây dựng cảnh quan nhân văn gồm các kiến trúc đền thờ, tháp mộ trên các gò phù sa cổ (có khi được con người đắp cao thêm), xây dựng nhà sàn cư trú ở địa hình thấp xung quanh… Họ khai thác nhiều loại động – thực vật nơi đầm lầy đìa trũng để sinh sống, trong đó có lúa ma hay lúa trời – loại lúa hoang dại có thể cao đến 1,5m, nổi trên mặt nước vào mùa nước, rồi dần dần “cải tạo” vùng đất trũng lầy để trồng lúa – có lẽ là theo lối sạ lúa một vụ năng xuất không cao, giống như lối canh tác của cư dân Đồng Tháp Mười cho đến gần đây. Quá trình này để lại dấu tích cư trú ở đây trong một thời gian rất dài, từ đầu Công nguyên đến khoảng thế kỷ XII – XIII. Không chỉ vậy, khu vực Gò Tháp còn gắn liền với cảng thị Oc Eo – Ba Thê và trở thành một trung tâm lớn thể hiện sự gắn bó giữa đời sống xã hội và sự phát triển của tôn giáo: từ một vài di tích quy mô không lớn, xây dựng đơn giản vào đầu Công nguyên đã phát triển đến đỉnh cao của kiến trúc và điêu khác Hindu giáo và Phật giáo vào thế kỷ VI – VIII. 

Việc tiếp cận khu di tích Gò Tháp từ môi trường tự nhiên để tìm hiểu về môi trường nhân văn đã đặt ra 2 vấn đề về văn hóa Oc Eo:

Một là, hiện nay các di tích văn hóa Oc Eo đang được bảo tồn là di tích kiến trúc tôn giáo – tín ngưỡng mà hầu như không có di tích cư trú và di tích môi trường nào xung quanh nó được bảo tồn. Do đó, một mặt các di tích này bị tách khỏi môi trường xã hội và môi trường tự nhiên, trở thành các phế tích đơn lẻ. Mặt khác, vô hình chung chúng ta đã chỉ quan tâm đến một yếu tố văn hóa ngoại sinh thuộc “thượng tầng kiến trúc” mà “quên đi” các yếu tố văn hóa nội sinh khác của “hạ tầng cơ sở” –  nền tảng vô cùng quan trọng để nhận diện chủ nhân của xã hội Oc Eo.

Hai là, dù có những thay đổi về “chính trị” từ thế kỷ VII nhưng sau đó, cuộc sống của cư dân cổ đồng bằng sông Cửu Long vẫn tiếp diễn trong sự thích ứng cao nhất với điều kiện tự nhiên và  bằng sự duy trì truyền thống (vật chất, tinh thần) của văn hóa Oc Eo. Do vậy, phạm vi niên đại của văn hoá Óc Eo nên chăng cần mở rộng hơn, đến khoảng thế kỷ X – XII, có thể và cần phải chia làm nhiều giai đoạn để nhìn nhận sự phát triển đa tuyến nhưng liên tục từ cội nguồn văn hóa thời Tiền sử ở Nam bộ mà không cần thiết sử dụng khái niệm “hậu Oc Eo” – một khái niệm cho đến nay chưa có được sự đồng thuận của các nhà khoa học về nội hàm và giới hạn niên đại của nó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Võ Sĩ Khải, 2002: Văn hóa đồng bằng Nam bộ (di tích kiến trúc cổ). NXB Khoa học xã hội.
- Lê Thị Liên, 2006: Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở đồng bằng sông Cửu Long trước thế kỷ X. NXB Thế giới.
- Lê Bá Thảo, 2004: Thiên nhiên Việt Nam. NXB Giáo dục.