Nguyễn Lục Gia
(Qua “Đại Nam thực lục tiền biên”)
[Tóm tắt: Cùng với tiến trình chinh
phục xuống phía Nam về mặt lãnh thổ, chính quyền chúa Nguyễn đã không ngừng
khai thông, củng cố và mở rộng tuyến đường thương mại nội địa lẫn ven bờ biển
Đông. Một cuộc chiến thương mại giữa chính quyền chúa Nguyễn với các thế lực
lái buôn khu vực và phương Tây diễn ra thực sự quyết liệt ngay từ đầu dưới
nhiều hình thức, kéo dài từ cửa Việt đến trấn Hà Tiên, trải rộng từ đất liền ra
hải đảo, mà dai dẳng nhất là các trở lực Hoa thương. Nếu như giặc Hiển Quý, Ô
Lan, Man An Liệt có tính chất nhất thời thì những loạn A Ban, Linh Vương -
Quảng Phú, Lai – Lăng, Lý Văn Quang, Hoắc Nhiên, Trần Thái... trở nên vấn nạn
cáo cấp thường trực. Lợi ích kinh tế cũng sống còn sánh bằng chính trị, thậm
chí vượt lên trên chính trị trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử vương
quyền Việt Nam].
Trong suốt 200 năm kiến lập và phát
triển xứ Đàng Trong, chính quyền chúa Nguyễn đã định hướng cho mình đường lối
hướng biển theo gương vương quốc Champa, đồng thời phát huy phương thức khai
thác và quản lý nông nghiệp với một tư duy thực sự khai mở. Nhờ vậy, Đàng Trong
đã bứt phá vượt lên, không những đủ sức đương đầu với Đàng Ngoài của họ Trịnh
mà còn đẩy nhanh tiến trình chinh phục xuống phía Nam trong xu thế mở rộng ảnh
hưởng ra ngoài của thế giới và khu vực. Trong một giới hạn nào đó, chính quyền
chúa Nguyễn đã theo kịp thời đại và hội nhập thành công.
Để giành lấy thế mạnh thương trường,
chính quyền chúa Nguyễn đã liên tục dẹp bỏ các trở lực thương mại trong phạm vi
quốc gia lẫn khu vực, quốc tế. Tiến trình này di chuyển theo hướng từ Bắc xuống
Nam cùng với cuộc chiến tranh xác lập chính thể, mở rộng đất đai của vương
triều họ Nguyễn từ lúc Nguyễn Hoàng đặt chân lên đất Thuận Quảng đến trước nội
chiến thời Tây Sơn.
Vụ
Hiển Quý tặc tại cửa Việt (1585).
“Ất Dậu... bấy giờ có tướng giặc
nước Tây Dương hiệu là Hiển Quý (Hiển Quý là tên hiệu của bọn tù trưởng Phiên,
không phải tên người) đi 5 chiếc thuyền lớn, đến đậu ở cửa Việt để cướp bóc ven
biển. Chúa sai hoàng tử thứ sáu lĩnh hơn 10 chiến thuyền, tiến thẳng đến cửa
biển, đánh tan 2 chiếc thuyền giặc. Hiển Quý sợ chạy (...) Từ đó giặc biển im
hơi” [1].
Theo quan sát của GS. Shigeru Ikuta,
mặc dù năm 1565 nhà Minh đã phải bãi bỏ lệnh hải cấm, song lại “không cho phép
các tàu Nhật được đến cảng của mình. Do đó việc buôn bán được tiến hành bởi
người Bồ Đào Nha hoặc bởi những kẻ giang hồ ngoài khơi”, “bao gồm dân đi biển
đủ mọi nguồn gốc và thường được gọi là hải tặc Nhật, những kẻ trú ngụ trên
những hòn đảo ngoài biển Đông Trung Hoa” [2]. Do vậy, tuy mang tiếng “hải tặc”,
phần lớn họ là những đội thương thuyền đóng vai trò buôn bán trung gian giữa
Nhật với Trung Hoa trong vùng biển Đông Nam Á. Nhưng đó là người Bồ Đào Nha,
tức Tây Dương hay người Nhật?
TS. Li Tana khẳng định bất ngờ: tên
cướp biển Shirahama Kenki, người Nhật đầu tiên được nhắc đến trong Tiền Biên đã bị lầm là người phương Tây
thì lạ lùng thay, 16 năm sau, cái tên Hiển Quý lại xuất hiện trong một bức thư
Nguyễn Hoàng gửi cho vị tướng quân Tokugawa thứ nhất, Ieyasu, vào năm 1601. Bức
thư giải thích rằng do không biết Hiển Quý là một thương gia của chính quyền
Tokugawa phái tới nên quan quân đã đánh đắm thuyền ở cảng Thuận An, nay cho hộ
tống về nước. Trong thư phúc đáp, Tokugawa nói rõ Hiển Quý không phải là đặc
phái viên của ông ta: “Những con người độc ác ấy đã phạm tội giết người đáng bị
dân tộc quý ngài trừng phạt. Lòng quảng đại của quý ngài đối với các thuỷ thủ
ấy đáng được chúng tôi ghi lòng tạc dạ một cách sâu sắc”, kèm thêm một thông
cáo: “Trong tương lai, các tàu thuyền từ xứ chúng tôi tới thăm xứ của Ngài phải
được chứng nhận bởi con mộc đóng trên bức thư này và tàu thuyền nào không có
con mộc sẽ bị coi là bất hợp pháp” [3]. Đó chính là chế độ Shuin Jo, thời kỳ
Châu ấn thuyền nổi tiếng trong lịch sử hải thương nước Nhật (1592-1635) mà Đàng
Trong liên tục duy trì và mở rộng suốt 3 thập niên từ năm 1604 đến 1635.
Vụ
Ô Lan tặc tại cửa Eo (1644).
“Bấy giờ giặc Ô Lan [Hà Lan] đậu
thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo tin. Chúa [Phúc Lan]
đương bàn kế đánh dẹp. Thế tử [Phúc Tần] tức thì mật báo với Chưởng cơ Tôn Thất
Trung (con thứ tư của Hy Tông), ước đưa thuỷ quân ra đánh. Trung lấy cớ chưa
bẩm mệnh, ngần ngại chưa quyết. Thế tử đốc thúc chiến thuyền của mình tiến
thẳng ra (...) Chiến thuyền trước sau lướt nhanh như bay. Giặc trông thấy cả
sợ, nhằm thẳng phía Đông mà chạy, bỏ rơi lại một chiếc thuyền lớn. Thế tử đốc
quân vây bắn. Tướng giặc thế cùng phóng lửa tự đốt chết. Thế tử bèn thu quân
về...” [1].
Diễn biến trên được sử gia Lê Quý
Đôn xác định xảy ra năm Quý Mùi (1643) và tóm lược: “con thứ hai (Phúc Lan) là
Phúc Tần đem thuỷ quân đánh phá được mười chiếc tàu của giặc Ô Lan ở cửa Eo.
Phúc Lan khen là dũng, bèn có ý dựng làm con nối nghiệp” [4].
Thực ra biến cố ở cửa Eo (Thuận An)
là điểm nút của một chuỗi dài các tác nhân trong quan hệ giao thương giữa chính
quyền chúa Nguyễn với Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) suốt từ năm 1613, có sự can
dự của họ Trịnh Đàng Ngoài. Các chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan một
mặt mở cửa mời gọi thương thuyền Hà Lan từ Batavia đến buôn bán, mặt khác tịch
thu không hoàn trả hàng hoá và đại bác trục vớt từ các tàu bị đắm của VOC.
Ngược lại, VOC vừa quan hệ với Đàng Trong, vừa ngầm giúp chính quyền Đàng
Ngoài, thậm chí còn tổ chức nhiều vụ bắt giết thường dân ven biển dọc phủ Hoài
Nhơn đến Đà Nẵng làm áp lực đòi trao trả hàng hoá và thuỷ thủ với chính quyền
chúa Nguyễn [5]. Cuối cùng, VOC đã công khai đứng về phía Đàng Ngoài chống lại
Đàng Trong bằng hành động quân sự.
Đoàn chiến thuyền của Hà Lan xuất
phát từ Batavia chia làm hai cánh: cánh thứ nhất gồm 3 chiến thuyền có tên
Wakendebode, Kievit, Meerman do Isaac Davids chỉ huy thẳng hướng ra Đàng Ngoài
để đón và đi với chúa Trịnh Tráng, vua Lê cùng một binh đoàn 100.000 quân; cánh
thứ hai cũng 3 tàu, có tên Wojdenes, Waterhond, Vos do Baek chỉ huy trực chỉ
hướng Thuận An. Đoàn chiến thuyền quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Tần chỉ huy lập
tức tổ chức vây đánh đội tàu do Baet dẫn đầu, khiến chúng hoảng loạn bỏ chạy.
Trong tình thế cấp bách, đối phương đành tự phóng lửa đốt cháy chiếc tàu tiên
phong do chính Baet chỉ huy, giải vây cho hạm đội trong tiếng súng rền vang lẫn
lửa khói mù trời [6].
Tám năm sau, năm 1651 VOC chủ động
dàn hoà và được chính chúa Nguyễn Phúc Tần đứng ra ký kết thương ước. Tuy
nhiên, phải hơn một thế kỷ sau, năm 1754 các nhà buôn Hà Lan mới đặt chân trở
lại xứ Đàng Trong.
Vụ
Hoàng Tiến tạo phản ở Đông Phố (1688 – 1689).
“Tháng 6, phó tướng Long Môn Hoàng
Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, tự xưng là Phấn dũng
hổ oai tướng quân, thống lĩnh dư chúng Long Môn, dời đồn sang Nan Khê (nay
thuộc huyện Kiến Hoà, tỉnh Định Tường), thủ hiểm đắp luỹ, đúc đại bác, đóng
chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc” [1]. Nhân đó phiên thần Chân Lạp cũng bỏ
việc triều cống, âm mưu đắp chiến luỹ cố thủ.
Mười năm về trước, năm 1679 binh
tướng bại trận nhà Minh không chịu thần phục Thanh triều đã kéo vào Đàng Trong
xin nhận làm thần dân chúa Nguyễn, được phát lệnh khai khẩn xứ Đông Phố - Đồng
Nai. “Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây
Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập, do đó mà minh hoá Hán [phong hoá văn
minh] thấm dần khắp miền Đông Phố” [1].
Nhằm độc chiếm cả một trung tâm
thương mại sầm uất vừa mới trỗi dậy này, Hoàng Tiến đã sát hại chủ tướng rất
mực trung thành với chúa Nguyễn, xâm lấn và cướp bóc Chân Lạp, mưu phản triều
đình. Lợi ích buôn bán và kinh tế nông nghiệp khai thác trên vùng đất mới đem
lại nguồn của cải dồi dào cho chính quyền của Chúa, vì vậy trừng phạt Chân Lạp
không nạp cống chỉ là cái cớ, tiêu diệt Hoàng Tiến mới đích thị lý do, cho dù
chiếu lệnh vẫn ghi “đem quân đánh Chân Lạp. Sai Hoàng Tiến làm tiên phong, dưới
quyền tiết chế của Vạn Long” [1]. Diễn biến cuộc thảo phạt mùa xuân năm Kỷ Tỵ
(1689) cho thấy Thống binh Mai Vạn Long phải tốn nhiều công sức lẫn cơ mưu mới
đánh bại được Hoàng Tiến, còn việc trừng phạt Chân Lạp tỏ ra kéo dài, không dứt
khoát. Cho đến năm sau (1690) khi Nguyễn Hữu Hào được cắt cử vào thay Mai Vạn
Long, tình hình đôi bên vẫn dùng dằng mà nguyên nhân viện dẫn không mấy thuyết
phục là bởi sự khất hẹn của nữ sứ Chiêm Dao Luật, cuối cùng đành buộc lui binh,
chấp nhận cách chức. Phải chăng vấn đề khai thông mạng lưới thương mại trên
vùng châu thổ giàu có sản vật phương Nam là lợi ích thiết thực hàng đầu nên
tranh thủ được sự đồng tình của quan quân, còn việc tiến sâu vào chinh phục nội
địa Chân Lạp lúc này vừa chưa cần thiết vừa oai uy quá đáng, bởi như lời của
Mai Vạn Long: “họ đã hàng phục thì còn chiến đấu làm gì?” hay lời của Nguyễn
Hữu Hào: “Yên vỗ người xa, quý lễ mà không quý vật” [1].
Vụ
A Ban nổi loạn ở trấn Thuận Thành (1693 – 1694).
“Tháng 12, người Thanh A Ban cùng
với hữu trà viên là Ốc nha Thát ở Thuận Thành nổi loạn. Trước là A Ban đến ở
Thuận Thành, vốn cùng Ốc Nha Thát đi lại rất thân. Từ lúc Bà Tranh bị bắt, hai
người đều chạy về đất Đại Đồng, A Ban đổi tên là Ngô Lãng, tự xưng mình có phép
hô phong hoán vũ, gươm đao không thể làm bị thương. Người Thuận Thành là Chế
Vinh kêu họp dân Man đi theo” [1]. A Ban chiếm giữ Phố Hài, đánh tan quân cứu
viện từ Bà Rịa, khống chế Phan Rí, vây bức Phan Rang. Nhận được sự cứu viện từ
Bình Khang, quân Nguyễn phản công và truy đuổi đến tận địa giới Chân Lạp, dẹp
yên biến loạn.
Giữa Champa và Trung Hoa xác lập
quan hệ buôn bán lâu đời nên có lẽ tại khu vực mệnh danh quốc cảng Panrik của
vương quốc Champa trên vùng đất tận cùng này, Hoa thương xuất hiện sớm hơn
người Việt đồng thời tạo được mối bang giao chặt chẽ với cộng đồng Champa hơn
so với người Việt, vốn đối thủ theo cả hai nghĩa: chính trị lẫn thương trường.
Phản ứng mang tính chất sống còn thể hiện ngay từ đầu đã công khai về một lợi
ích căn bản được xác lập chắc chắn giữa thương gia và lãnh chúa. Lãnh chúa Thát
thì đứng ra tập hợp dân Chàm, có đồ đảng Chế Vinh làm thay; lái buôn A Ban thì
núp bóng làm Ngô Lãng, vừa phỉnh dụ Chàm tộc bởi phép tắc thần thông vừa đánh
lừa người Việt bằng nhân thân đã được Việt hoá, nhân danh người Việt chống lại
chính sách cai trị của quan quân Việt. Thái độ trấn áp mạnh mẽ của quan quân
Nguyễn đã làm tan vỡ liên minh giữa nhà buôn với quý tộc, đè bẹp sự thách thức
về quyền lợi của giới Hoa thương trên vùng đất mới mở cực Nam Trung Bộ này.
Vụ
Linh Vương – Quảng Phú tụ đảng tại Quảng Ngãi – Qui Ninh (1695).
“Người lái buôn ở Quảng Ngãi tên là
Linh (không rõ họ) tụ đảng hơn 100 người, tự xưng là Linh Vương, tạo chiến
thuyền, đúc binh khí, cùng người Qui Ninh là Quảng Phú (không rõ họ) hợp đảng,
ra vào núi rừng, hoành hành cướp bóc, quan địa phương không dẹp được, nhân dân
sợ hãi chạy báo lên” [1].
Quảng Ngãi cùng với Qui Ninh trực
thuộc dinh Quảng Nam ngay từ đầu đã là đất trị quản của họ Nguyễn, thấm nhuần
pháp chế khoan dung, thuần thục lâu đời. Hầu như không có những biến động xã
hội đáng kể xảy ra ở đây cho đến tận đầu thế kỷ sau, trừ đôi lần đột nhập của
một bộ tộc vùng cao, gọi là Mọi Đá Vách nhằm cướp của, bắt người. Nhờ vậy, cư
dân yên ổn làm ăn, kinh tế phát đạt, buôn bán sầm uất, nhất là hoạt động thương
mại cảng thị ven biển, thường do thương nhân người Hoa nắm giữ và điều tiết.
Với thế lực kinh tế trong tay, bộ phận đại Hoa thương có khuynh hướng thao túng
cả tuyến đường thương mại của Đàng Trong bằng nhiều thủ đoạn, kể cả việc cấu
kết, dung nạp các băng nhóm cướp biển, cướp núi.
Lái buôn tên Linh tuy gốc gác không
rõ ràng, như rất nhiều trường hợp mà trong Tiền
biên xác định rằng “không rõ họ”, song có thể nhận diện kẻ cầm đầu này qua
danh xưng và kẻ đồng mưu. Tự xưng Linh Vương, điều này thường thấy ở các nhóm
giặc Tàu Ô, mà đây là thương gia chứ không đơn thuần tướng cướp; hợp đảng với
Quảng Phú, rõ ràng họ Quảng đích thị Tàu rồi [7]. Cả hai chứng cứ đã xác quyết
Linh Vương nguyên là một Hoa thương chính hiệu. Lợi dụng tình hình bất ổn cũng
như sự dồn sức đối phó của chính quyền chúa Nguyễn ở hai đầu vương quốc, loạn A
Ban tại phủ Bình Thuận phía Nam (cuối 1693 - đầu 1694) và loạn cung đình Huệ -
Thông ngay tại Chính Dinh phía Bắc (1694), Linh Vương lập tức hành động. Giả
hoặc cũng có thể cả ba thế lực tạo phản này cùng liên kết và hậu thuẫn cho
nhau, nhưng do kế hoạch bất nhất nên hành động không đồng loạt? Dù âm mưu thế
nào, chính quyền chúa Nguyễn cũng đã mạnh tay trừ khử: “Chúa sai dinh Quảng Nam
hợp với hai phủ Quảng Ngãi, Qui Ninh đem quân đi đánh. Khi các đạo quân xông
tới sơn trại thì Linh đã chết. Quảng Phú cả sợ, trốn vào Phú Yên, dân Man bắt
đem nộp. Chúa sai giết cùng với đồ đảng 20 người, và hậu thưởng dân Man” [1].
Lệnh trực tiếp từ Minh Vương, có sự tiếp sức của người Thượng dọc dài trên một
vùng rừng núi rộng lớn phía Tây, chứng tỏ tính chất khẩn trương lẫn nguy hiểm
của vấn đề.
Vụ
Man An Liệt chiếm cứ đảo Côn Lôn (1702 – 1703).
“Giặc biển là người Man An Liệt
[Anh, English] có 8 chiếc thuyền đến đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô Thích
Già Thi 5 người (...) cùng đồ đảng hơn 200 người, kết lập trại sách, của cải
chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác” [1].
Côn Đảo thuộc chủ quyền chúa Nguyễn
nằm ngoài khơi biển Đông, án ngự trên tuyến đường thương mại Ấn Độ - Trung Hoa
nên là điểm dừng chân lý tưởng của các hạm thuyền quốc tế ngang qua khu vực.
Công ty Đông Ấn của chính phủ Anh (EIC) âm mưu thiết lập một trạm trung chuyển
nhằm tập kết và phát tán hàng hoá hoặc giao nhận mệnh lệnh. Sự kiện trên nằm
trong một nổ lực lớn của người Anh nhằm vào mục đích đó, song họ đã bị thất
bại: “trấn thủ Trấn Biên Trương Phúc Phan mộ 15 người Chà Và sai làm kế trá
hàng đảng An Liệt để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An Liệt không biết. Ở Côn
Lôn hơn một năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người Chà Và
nhân đêm phóng lửa đốt trại, đâm chết nhất ban nhị ban, bắt được ngũ ban trói
lại, còn tam ban tứ ban thì theo đường biển trốn đi. Phúc Phan nghe tin báo,
tức thì sai binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp...” [1].
Tuy nhiên, cách giải thích của các
tài liệu lại không trùng khớp nhau, thậm chí còn mâu thuẫn về nguyên nhân và
thời điểm biến cố xảy ra. Phía người Anh cho biết Allan Catchpole, giám đốc
thương điếm của công ty Đông Ấn Anh, có mang theo “một số người Maccassar [Mã
Lai] được dùng làm lính và giúp dựng một công sự và đã ký với họ một hợp đồng
ba năm”, và vì một lý do nào đó, ông này vào phút cuối đã không thực hiện hợp
đồng, do đó những người Mã Lai “đầy căm thù và độc ác” đã giết gần hết số người
Anh vào năm 1705; nhưng theo một văn bản khác, Nhật ký của công ty Đông Ấn buôn bán với Trung Hoa (1635 – 1834) thì
một chiếc tàu tên là Catherine của công ty Anh tới Côn Đảo ngày 5.7.1704, giám
đốc vẫn là Allan Catchpole mà vào thời điểm cuối tháng 7 này có tới 5 tàu Anh
khác trên đường đi Trung Hoa đã ghé qua nhận mệnh lệnh [3].
Trong khi đó, chiến tích cùng công
trạng của Trấn thủ dinh Trấn Biên Trương Phúc Phan mãi mãi được chúa Nguyễn
vinh danh trên bảng vàng các bậc đại công thần khai quốc: “giặc biển Man An
Liệt là lũ Thuyền, Tô, Lỵ, Gia, Thi 5 người, xưng là 5 ban, cùng đồ đảng 200
người đóng ở đảo Côn Lôn lập đồn trại chứa của báu như núi. Bốn mặt đảo, chúng
đều đặt súng lớn (...) Phan bèn triệu mộ 15 người Chà Và, mật sai trá hàng rồi
nhắm ban đêm phóng hoả đốt giết (...) thu hết vàng lụa đem về nộp. Chúa hậu
thưởng cho. Lúc Phan chết, được tặng phong hàm Thái bảo Phan Quốc công” [8].
Vụ
người Man ở Thuận Thành, người Thanh ở Đông Phố và giặc biển ở Long Xuyên (1746
– 1747).
Năm 1746, “Người Man Thuận Thành
[người Chàm] là Dương Bao Lai và Diệp Mã Lăng nổi loạn. Lưu thủ dinh Trấn Biên
là Nguyễn Cương [Cường] đem quân đi đánh, đắp luỹ Cổ Tỉnh để chống giặc, thừa
lúc sơ hở đánh úp bắt được Bao Lai và Mã Lăng giết đi”; tháng giêng năm 1747,
“khách buôn người Thanh là Lý Văn Quang đánh úp dinh Trấn Biên (...) Lưu thủ
Nguyễn Cường đem binh của dinh giàn ở bờ phía Bắc, gởi hịch báo cai cơ đạo Hưng
Phúc là Tống Phước Đại hợp quân đánh dẹp. Bắt được Văn Quang và đồ đảng 57
người. Chúa thấy là người Thanh không giết vội, đều hạ ngục; tháng 8 “giặc biển
là tên Đức (không rõ họ) cướp bóc miền ngoài biển Long Xuyên. Mạc Thiên Tứ được
tin báo, tức thì sai cai đội Từ Hữu Dụng đem 10 chiến thuyền, đi bắt được bọn
giặc đem giết hết” [1].
Xâu chuỗi 3 biến cố trên, diễn biến
một cuộc chiến giành giựt thị trường thương mại trên vùng đất đang khai mở ở
phía Nam mang tính chất sống còn thật sự giữa chính quyền chúa Nguyễn với thế
lực người Hoa đội lốt đủ các thành phần.
Lai, Lăng không có vẻ gì là Chàm tộc
cả, bởi họ Dương Bao, Diệp Mã hoàn toàn là những họ kép của Trung Hoa [7]. Sử
gia nhà Nguyễn đã lầm lẫn một cách cố ý để tiêu diệt không nương tay hành động
chống trả người Việt cùng những quyền lợi kinh tế mà chính quyền chúa Nguyễn
xác lập trên phần đất cuối cùng của vương quốc Champa có nhiều mối ràng buộc
với thương lái Trung Hoa trước khi người Việt đặt chân đến. Họ liên kết với
giới quý tộc và kích động dân Chàm phản
kháng dưới chiêu bài chính trị rằng “không phục tùng chế độ cai trị của nhà
Nguyễn” [9], như thường thấy ở nhiều nơi, vào nhiều thời điểm trên đất Thuận
Phủ để giành lại địa vị thương mại tại một vị trí có nhiều cảng thị quan trọng,
nối liền vùng Nam Trung Bộ phong phú các chủng loại đặc sản truyền thống với
đồng bằng Nam Bộ dồi dào các nguồn hàng nông nghiệp.
Việc dẹp loạn Lai – Lăng có thể kéo
dài chứ không gọn ghẽ như niên biểu mà Tiền
biên đưa ra (khoảng cuối năm 1746), bởi để ngăn chặn hiệu quả các mũi tấn
công của đối phương trên cả một vùng rộng lớn phía Nam Bình Thuận, Trấn thủ
Nguyễn Cường của dinh Trấn Biên đã phải cho quân lính đắp luỹ Cổ Tỉnh dài hơn
645 trượng kiên cố [10], sau đó từng bước phản kích và lợi dụng sơ hở đánh úp
doanh trại kẻ chủ mưu. Do đó, tranh thủ thời cơ lực lượng tại chỗ của chúa
Nguyễn đang bị thu hút ở mặt Bắc, Lý Văn Quang dẫn đồng đảng đánh úp dinh Trấn
Biên. Tuy nhiên Lưu thủ Nguyễn Cường đã kịp thời phối hợp với Cai cơ đạo Hưng
Phúc là Tống Phước Đại bao vây bắt sống.
Trong khi đó, giặc Đức hoạt động ráo
riết vùng biển từ Qui Nhơn đến Long Xuyên, Ba Thắc cũng đã táo tợn tấn công
cướp lấy thuyền long bài (thuyền vua ban) và hàng ban phẩm của Tổng trấn Hà
Tiên Mạc Thiên Tứ. Lai lịch cùng hành động của Đức ngờ rằng là một Tàu Ô hơn
tên cướp Việt qua mô tả của văn thần nhà Nguyễn: “giặc biển nguỵ xưng là Vũ
Vương (...) tên là Đức Bụng (người phủ Qui Nhơn, tên là Đức, vì bụng to gọi là
Đức bụng)” [11], bởi dám liều lĩnh công khai tuyên chiến với quan quân nhà Chúa
và rặt kiểu xưng vương bá chủ như thương tặc Đông Phố Đại Vương Lý Văn Quang,
Linh Vương...
Những
vụ tập kích trấn Hà Tiên (1767 – 1771).
Trên điểm dừng chân cuối cùng của họ
Nguyễn ở phương Nam này đã liên tục bị khuấy động bởi một loạt các tranh chấp
thương mại, cướp biển, cát cứ, chiếm đoạt đất đai của người Hoa lẫn Xiêm La,
người Chà Và và Chân Lạp, từ Mã Lai, Sumatra đến Miến Điện. Năm 1767, “người
Triều Châu nước Thanh là Hoắc Nhiên rủ nhau họp đảng, lấy đảo Cổ Công là nơi
hiểm trở hẻo lánh, dựa làm sào huyệt, thường ẩn hiện ở vùng duyên hải, đón cướp
thuyền buôn, vây cánh ngày một nhiều, có ý ngầm nhòm ngó Hà Tiên”; năm 1769,
“Người Triều Châu là Trần Thái họp đảng ở núi Bạch Mã, mưu đánh úp Hà Tiên,
ngầm kết với người họ Mạc...”; năm 1770, “Phạm Lam họp đảng ở Hương Úc và Cần
Vọt cùng với người Chà Và là Vang Ly Ma Lư và người Chân Lạp là Ốc nha Kê họp
quân hơn 800 người và 15 chiếc thuyền, chia đường thuỷ bộ đánh úp Hà Tiên”; năm
1771, lại “vua Xiêm (...) dùng tên giặc [núi] Bạch Mã là Trần Thái làm hướng
đạo, vây trấn Hà Tiên...” [1].
Có thể nhận thấy chặng cuối con đường giao
thương của chính quyền chúa Nguyễn là nơi quy tụ các lợi ích to lớn của giới
thương nhân khu vực, trong đó tập trung đông đảo nhất vẫn là các lái Trung Hoa.
Thủ đoạn vẫn như cũ, song mức độ tranh chấp của người Hoa càng về sau càng trở
nên căng thẳng, khốc liệt. Thêm một tác động cùng chiều, đúng vào thời điểm này
tại Xiêm La, Trịnh Quốc Anh tự lập làm vua: “Quốc Anh là người Triều Châu nước
Thanh (...) thừa lúc nước Xiêm trống trải suy yếu, bèn dấy quân đánh úp lấy
đất, tự xưng làm quốc vương” [1]. Cơ may của người đồng hương phương Bắc đã
kích thích lòng tự tôn của những gã lái buôn phiêu lưu, khiến chúng càng nóng
lòng manh động, liều lĩnh như trong canh bạc cuối: được ăn cả, ngã về không!
Với tính chất là một thể chế thương
mại [3], chính quyền chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây một đầu cầu giao dịch quan
trọng, mệnh danh một Tiểu Quảng Châu và được bảo vệ một cách nghiêm ngặt bằng
lực lượng bố phòng địa phương, dưới sự hỗ trợ tích cực của Gia Định. Từ năm
1714, Minh Vương phong Mạc Cửu làm Thống binh trấn Hà Tiên, tước Cửu Ngọc hầu.
Mạc Cửu chết, năm 1736 con là Mạc Thiên Tứ thế tập, được Ninh Vương “thăng làm
Khâm sai Đô đốc Tung Đức hầu, ban cho 3 chiến thuyền long bài, miễn cho lệ thuế
thuyền buôn, hàng năm ra nước ngoài mua đồ vật quý, đến Kinh dâng tiến” [11].
Rõ ràng quyền lợi của chúa Nguyễn tại đây là không thể nhân nhượng, do đó các
thế lực tranh chấp đều lần lượt bị đè bẹp, ngay cả quân Xiêm cũng bị đánh cho
đại bại, vua Xiêm phải gửi thư xin cầu hoà.
Cùng lúc này, phong trào Tây Sơn nổ
ra đã cuốn hút những nổ lực của họ Nguyễn từ mở đất và thương mại chuyển sang
giành giữ đất và chiến tranh. Tuy nhiên, những kinh nghiệm giao thương và lợi
thế kinh tế của vùng đất phía Nam đã được họ Nguyễn phát huy tối đa, tạo nên
đối trọng vật chất to lớn, góp phần vươn lên giành lấy thắng lợi chung cục
trong cuộc nội chiến mất còn suốt ba thập niên cuối thế kỷ XVIII.
Tài
liệu trích dẫn.
[1] QSQ triều Nguyễn (1962), Đại Nam thực lục tiền biên, tập 1, NXB
Sử học, HN, tr.37, 73-74, 135, 125, 136, 140-142, 148, 152, 159, 161, 209-210,
233-240.
[2]
UBQG (1991), Đô thị cổ Hội An,
NXB KHXH, HN, tr.255-256.
[3] Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt
Nam thế kỷ 17 và 18, NXB Trẻ, tr.87-88, 113-114, 125.
[4] Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, NXB Văn hoá – Thông
tin, tr.65-66.
[5] Nguyễn Lương Bích (2003), Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước,
NXB Quân đội nhân dân, tr.179-181.
[6] Tôn Châu Quân (2008), “Nguyễn
Phúc Tần và trận hải chiến lịch sử năm 1644”, tạp chí Xưa nay (số 304), tr.12-13.
[7] Nguyễn Khôi (2006), Các dân tộc ở Việt Nam: cách dùng họ và đặt
tên, NXB Văn hoá dân tộc, HN, tr.161-163.
[8] QSQ triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 1, NXB Thuận
Hoá, tr.126.
[9] ƯBND tỉnh Bình Thuận (2006), Địa chí Bình Thuận, Sở Văn hoá – Thông
tin tỉnh Bình Thuận, tr.228.
[10] QSQ triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 3, NXB Thuận
Hoá, tr.166.
[11] Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, NXB Giáo dục,
tr.120-121.