22 tháng 2, 2012

TA NÓI TIẾNG VIỆT MÀ TA KHÔNG BIẾT

                                                                         Nguyễn Cung Thông

Nhân về dự hội thảo quốc tế về giao lưu văn hoá Trung Việt 16/9/2011). Anh Nguyễn Cung Thông gửi bài gợi ý đến VCV.
Vài tiểu đề gợi ý trong các buổi nói chuyện tại đại học quốc gia TP HCM (9/2011) nhân hội nghị quốc tế về giao lưu văn hoá Trung-Việt. Các điểm sau ghi rất tóm tắt để bàn luận thêm:

1. Ta nói tiếng Việt mà ta không biết
Trầu cau là sản phẩm của phương Nam, vì thế khi tra cứu cách phát âm trầu cho ra nhiều điều thú vị (khi tôi ở Đài Loan ... Dân chúng và các cửa hàng đều dùng 'ăn tân lang/ăn cau' chứ không nghe nói là ăn trầu) .

Trầu (giầu, giàu) plu (Pọong), tlu (Mường Rục), mlu (Brâu), blu (Kha), mlu (M'nông, Stiêng, Biat), plū (Môn), pu (
ພູ, Lào), bơlâu (Rơngao), tlờu (Mường), ulàw (Arem), plu2 (Palaung), pu2 (Wa), bluk (Sakai), blu (Theng), sam-mlhu (Miến), พลู ; ใบพลู ploo ; bai ploo (Thái) mơlu (Chăm), hla mơlu (GiaRai) ... Ngay đến cả tiếng Tokodede (Đông Timor) cũng gọi trầu là malu, tiếng Sinhala (Sri Lanhka) gọi là bulath ...v.v…

Tiếng Hán Việt tương ứng với trầu là phù lưu - được Tả Tư
左思 (250-305) nhắc đến trong Ngô Đô Phú (吳都賦) 石帆水鬆, 東風扶留 : thạch phàm thủy tôngđông phong phù lưu ... Hay Ngô Vạn Chấn 異物誌 thời Tam Quốc từng ghi nhận trong Di Vật Chí (異物誌) là 古賁灰, 牡礪灰也。 與扶留 檳榔三物合食, 然後善也。 扶留籐, 似木防己。 扶留 檳榔, 所生相去遠, 為物甚異而相成。 俗曰:檳榔扶留, 可以忘 cổ bí hôimẫu lệ hôi dãDữ phù lưutân lang tam vật hiệp thựcnhiên hậu thiện dãPhù lưu đằngtự mộc phòng kỷPhù lưutân langsở sinh tương khứ viễnvi vật thậm dị nhi tương thànhTục viết‘tân lang phù lưukhả dĩ vong ưu' ... 本草綱目》 卷十四)。 吳其浚則據其在湘 粵等地所觀察, 認為扶留無花實, 當地人只取葉裹檳榔而食, 與蒟子有異 植物名實圖考》 卷二五蒟醬、蔞葉” (A) Bản Thảo Cương Mục quyển thập tứ Đãn ngô kì tuấn tắc cứ kì tại tươngđiềnviệt đẳng địa sở quan sátnhận vi phù lưu vô hoa thậtđương địa nhân chỉ thủ diệp khoả tân lang nhi thựcdữ củ tử hữu dị kiến thực vật danh thực đồ khảo quyển Nhị Ngũ “củ tương” “lâu diệp” ...v.v... Cũng được ghi nhận trong Thục Kí, Thuỷ Kinh Chú, Giao Châu Kí, Quảng Châu Kí, Hồng Lâu Mộng ... Và hiện diện trong An Nam Chí Lược (Lê Tắc), Lĩnh Nam Chích Quái (Trần Thế Pháp), Vân Đài Loại Ngữ (Lê Quí Đôn) ...v.v... Trong Đồng Khánh Địa Dư Chí có 31 địa danh mang tên Phù Lưu (ở Bắc Ninh, Thanh Hoá ... phản ánh phần nào nơi xuất phát)


Từ các dữ kiện ngôn ngữ trên, ta có thể phục nguyên một dạng cổ của trầu là *blu - để ý tương quan giữa nguyên âm u và âu như bu bâu, thu thâu, khu khâu, ưu âu, chu châu, mùi màu ... Thành ra *blu liên hệ đến blâu (blau, trầu) mà Việt Bồ La vẫn còn ghi nhận. Chính dạng cổ này giải thích được dạng kí âm phù lưu (tiếng HV, xem thêm chi tiết về tương quan b-ph trong loạt bài Bụt hay Phật?(B). Cũng vào đầu CN mà các tài liệu TQ viết về Phù Nam
扶南 với khả năng là kí âm của bnam hay vnam (núi, bây giờ là phnom, theo George Coedès); (khuynh hướng đơn âm hoá tổ hợp các phụ âm bl- br- như từ tiếng Phạn như Buddha > Phù Đồ / , Phù Đà , Phù Đầu ... ( krosa > câu lưu xá, brahmana > Bà La Môn, pra- > Ba La - ...)

Tóm lại, ta vẫn dùng phù lưu như tiếng HV mà thường không biết đây là tiếng Việt (cổ) *blu, đây là loại chữ Việt-Hán-Hán-Việt thường bị ngộ nhận là Hán Việt.

(A) Tự điển chữ Nôm (Nguyễn Quang Hồng chủ biên, 2007) cho rằng phù
là loại F1 - điều này đáng được xem lại cho cẩn thận vì chữ này đã có từ thời Kinh Thi, Sở Từ - cũng như lẫn lộn giữa các loài cây leo (cỏ) làm thuốc (Ngọc Thiên: hao thuộc 玉篇】 蒿屬

(B)  Phù lưu
浮留 theo đa số định nghĩa của tự điển TQ thì là đằng danh (tên loài cây leo, mọc thành bụi quấn quýt). Chỉ Nam Quốc Âm Giải Nghĩa (Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, 1985) cũng ghi rằng

Sơn Đằng dây chão càng bền

Phù Lưu Diệp truyện lá trầu đỏ tươi

…v.v…

2. Hiện tượng m ‘mặt mắt mũi môi mép má mụn mí mi mày ...’
Vài chi tiết từ cuộc nói chuyện với anh Bùi Văn Chiến (gốc người Mường) ở Suối Khoáng, Kim Bôi (tỉnh) Hoà Bình ngày 11/2/2008:

Trong tiếng Việt ta thấy các từ chỉ bộ phận (con người) trên mặt đều có khuynh hướng bắt đầu bằng phụ âm môi môi (bilabial) m- như mắt mặt mồm /miệng/mõm môi mép má mụn/mụt mí mày mi mũi (A) ... Tiếng Mường cũng cho thấy hiện tượng m này cũng theo anh Chiến :
măt (Mường) - mặt (Việt) : mặt tlời (mặt trời)...
măt - mắt : Tau măt (đau mắt) ...
môi - môi : mỉm môi - mím môi...
mũi - mũi : mũi hớt (mũi hếch)...
mụn - mụn : nhế mụn (nhiều mụn) ...
mồm - mồm : mon mồm (câm miệng) ...
mênh - miệng : mím mênh (mỉm miệng) ...cf. miểng tlù (miếng trầu) ...
mênh mường - miệng mường (đầu bản, đầu mường), mẽnh khảl (miệng hùm)...
măt mũi - mặt mũi ...
măt mày - mặt mày ...
...v.v...

Tôi có kiểm lại các dữ kiện trên qua Từ điển Việt Mường (Nguyễn Văn Khang chủ biên, 2002).
Hiện tượng m (trong đó có các từ căn bản như mắt mũi miệng được Morris Swadesh liệt kê) cho thấy liên hệ họ hàng (một tiêu chí) của tiếng Việt và Mường.
Hiện tượng m có thể liên hệ đến những vấn đề ngôn ngữ học và phong tục lịch sử như :

2.1 Hiện tượng vùng (areal phenomenon)
Tiếng Chăm (Chàm) : papah (miệng/mồm - nước miếng : ia papah), mưta (mắt - nước mắt: ia mưta, nước đái : ia mưik..), mjeng /miêng (mép), bbauk (mặt), bbauk (má - hai bên má : tua kah bok), chabôi (môi) (A), mun (mụn), adung/idung (mũi) (, chih (mí - mí mắt : chih mưta) ... dựa vào cuốn 'Từ Điển Việt-Chăm' (chủ biên Bùi Khánh Thế, 1996)

2.2  Hiện tượng phổ quát (Universals)
Elaine Andersen trong bài viết 'Lexical universals of body-parts' (trong cuốn 3 - 'Universals of Human languages' chủ biên J. Greenberg - Stanford University Press 1978) có nhận xét về cách dùng chung của một số từ chỉ bộ phận cơ thể như tiếng mắt, mặt (tiếng Tarascan là nari), má, mặt (tiếng Romanian là obraz), miệng , môi (tiếng Romanian là gura) ...

2.3  Tên gọi cha mẹ hay người nuôi dưỡng (nursery words)
Đây cũng có thể là hiện tượng phổ biến/quát (universals) - khi so sánh các tiếng gọi cha mẹ như père (papa)/mère (maman)- Pháp , Swahili (Phi Châu) là baba / mama , Bengali (Ấn Độ)là baba / ma , Quan thoại là phụ /fu - mẫu/mu3 (mu3qin1)hay còn là baba/mama ...... Việt Nam có ba bô cha / má mẹ mợ mụ mê ...v.v... cho thấy tần số dùng phụ âm môi khá cao. Ngoài ra mớm cơm (C) còn có thể dẫn đến mớm tiếng (một số nhà nghiên cứu còn đưa ra từ motherese cho trường hợp này).
A.                  Đây là hiện tượng m (the m phenomenon) trong tiếng Việt - Từ dầu thập niên 1970 khi tôi bắt đầu đặt vấn đề và đi học thêm về Ngôn Ngữ Học (bên Úc - cho đến ngày hôm nay) để cố giải thích : đây là trường hợp ngẫu nhiên hay cố tình ? So sánh với các ngôn ngữ loài người khác dùng phụ âm môi m/b/p để chỉ ba má trong quá trình thụ đắc ngôn ngữ (language acquisition cf. tác động bú mớm, mớm cơm), ảnh hưởng người mẹ (mẫu hệ), một 'bản tuyên ngôn độc lập ngôn ngữ' của dân Việt qua bao thời biến động của lịch sử
Không kể tên gọi 12 con giáp ...v.v...

3. Vài nhận xét về tiếng Mường (Bi)
3.1 Mắng: nghe, mảng theo Việt Nam Tự điển (KTTĐ), Đào Duy Anh, Nguyễn Quang Hồng ...

Áng nạ mắng hay thương xót buồn mòn (Phật Thuyết)(A)
Tai nghe mắng ắt còn vang (Cư Trần Lạc Đạo)
Bên tai dường mắng tiếng thiều quân (Quốc Âm Thi Tập/QATT)(B)
Đắt tai biếng mắng sự vân vân (QATT)(A)(B)
Mắng tiếng dữ lành bao đắp (Bạch Vân Am)
Tôi mắng nghe tiếng làm người chẳng khỏi chưng trời đất mặc mà có sinh (Truyền Kỳ Mạn
Lục)(A)
Đêm nằm chẳng mắng tiếng gà (Thiên Nam Ngữ Lục ngoại kỷ)
Thức ngủ chưa mắng biết (Thi Kinh Giải Âm, 1792)
Giang Đông mắng tiếng đa tài tuấn (Nguyễn Hữu Huân khi được tha về)(B)
Dùi sương chợt mảng trên thành điểm năm (Hoa Tiên)
...v.v...

Trong Kiều có 2 lần dùng mắng (mảng, theo Đào Duy Anh)
Mắng tin xiết nỗi kinh hoàng (Kiều/K, câu 535)(A)(B)
Sảnh đường mắng tiếng đòi ngay lên hầu (K, câu 1718)(A)

Tiếng Việt hiện đại KHÔNG thấy dùng mắng hay mảng để chỉ nghe nữa (tự điển Việt Bồ La/1651
còn ghi MẮNG TIN, nghe tin). Tiếng Mường (Bi) vẫn còn dùng như

Măng phiền (nghe phiền), măng nhọc (nghe nhọc, cảm thấy mệt), măng tồn (nghe đồn)...
Hết quêl nì ay chăng măng tồn wềl nả (hết làng này ai mà không nghe đồn về nó)
Ăn bôn măng ngã (ăn rau khoai nước nghe/cảm thấy ngứa)
Ho hảo ti dỗng da mé còn măng nhỗn lẳm (tôi muốn đi chơi cậu nhưng cảm thấy bận rộn công
việc lắm) - măng nhỗn (nghe/cảm thấy bận rộn)
Măng mờng (nghe mừng, cảm thấy mừng)
Các từ Việt cổ như măng, cúi, tlu/klu (tru, trâu), cải cả (cái cá - bây giờ là con cá), cải cảy ca (cái gà - bây giờ là con gà tiếng Việt)... cho thấy tiếng Mường (vì yếu tố địa lý lịch sử ...) còn bảo quản phần nào tiếng Việt cổ (C)

(A) "Từ điển từ Việt cổ" (Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện - NXB Văn Hoá Thông Tin 2001)

(B) "Từ điển từ cổ" (Vương Lộc - NNXB Đà Nẵng 2002)

(C) tôi lại chợt nhớ đến người bạn người Hòn (Phan Thiết ra đảo) khi hỏi anh làm nghề gì, anh
trả lời tôi đi biên (rất khó nghe lúc đầu, nghĩa là tôi đi biển/đánh cá)

3.2 Một mô hình đơn giản về thời kỳ các tiếng Việt Mường tách ra (time depth)- phương pháp định lượng (quantitative method):
Vấn đề thời gian tách ra giữa tiếng Việt và Mường có thể tính bằng phương pháp Morris Swadesh như đã viết trước - đây chỉ là một thí dụ :

So sánh các từ căn bản giữa Mường và Việt (bây giờ), và ghi nhận khoảng 80% giống nhau (cùng gốc)(A). Giả sử tỉ số thay đổi λ (rate of change) là 0.10 (B) (hay cứ một ngàn năm thì có 10 chữ bị thay đổi trong 100 chữ so sánh) thì thời gian tách ra là

t = ln(0.80)/(-2x0.10) = 1116 năm ~ 1100 năm

(đương nhiên là có sai số tuỳ theo mức chính xác muốn dược/confidence level)

Cá nhân tôi chưa thấy một bảng so sánh và thống kê như vậy, tuy nhiên một số bài viết liên hệ về tiếng Mường, Việt và Mon-Khme có thể tìm đọc trên mạng như [www.nostratic.ru] (bài này viết cách đây cả 44 năm) (C).

Phê bình thêm: Nguyễn Tài Cẩn (1995), Phạm Đức Dương (1985) cũng cùng nhận xét vào thời kỳ tách ra như trên, Nguyễn Văn Tài (1978) cho rằng có thể sớm hơn ... Keith Taylor (hai thời điểm khác nhau) ... Nguyễn Phú Phong cho là khoảng thế kỷ IX (trong bài viết "Nghiên cứu về nhóm Ngôn ngữ Việt-Mường")

(A) 80% là thí dụ (chủ quan) mà thôi - tuy nhiên xem thêm các nhận xét trên mạng [cema.gov.vn]
 
(B)  dựa vào tiếng Hán (0.1) và Nhật (0.11) (trích từ bài 'COMPARATIVE-HISTORICAL LINGUISTICS AND LEXICOSTATISTICS' của Sergei Starostin). Swadesh đề nghị tỉ số thay đổi λ là 0.14 (dựa vào các ngôn ngữ Ấn Âu)

(C) các bài viết khác mà tôi có dịp xem qua như André Haudricourt ('La place du vietnamien dans les langues austroasiatiques' 1953, 'L'origine des tons vietnamiens' 1954) và các bài viết của Davi Thomas (ông ghi lại 200 chữ từ tiếng Mường ở Hoà Bình) ...v.v... Các bài viết của Nguyễn Văn Tài rất đáng chú ý như "Tiếng Nguồn, một phương ngôn của tiếng Việt hay một phương ngôn của tiếng Mường?" 1975 ... hay "The Nguồn language of Quảng Bình, Vietnam" (Nguyễn Phú Phong, 1995) ...v.v...

Các yếu tố lịch sử về thời kỳ tách ra (cách đây 1100 năm) là thời loạn 12 sứ quân), thời kỳ dành độc lập và tự chủ (có chính quyền trung ương - phân biệt rõ nét người Kinh tập trung ở thành thị hơn ...) ...