Dương Phước Thu
Những rảnh rỗi tôi thường
cùng nhóm bạn bàn luận chuyện ngày xưa: “Triều Nguyễn có lệ Tứ bất không?”. Đôi
khi lại nghe “Triều Nguyễn ban luật Tứ bất”. Thi thoảng tôi lại gặp trên một
vài trang báo hay ở một vài cuốn sách biên khảo về Huế xưa, nhiều tác giả cũng
đã khẳng định chắc chắn như vậy. Và xem ra lệ ấy là có thật.
Lệ Tứ bất như lâu nay người ta vẫn
thường giải thích, là bốn điều không, có người nâng lên thành bốn điều cấm
không được làm.
Dưới thời Nguyễn (1802-1945), chiếu
theo lệ ấy thì “Vua không lập Hoàng hậu khi vua đương tại vị, không phong chức
Tể tướng, không ban tước Vương cho người trong hoàng tộc đang còn sống và thi
cử không lấy đỗ Trạng nguyên”. Điển chế một triều đại đã quy định như thế.
Thi thoảng lục tìm tư liệu, tôi lại
bắt gặp ở một số cuốn sách khác viết về cái lệ này và lấy làm ngờ ngợ. Tại sao
Vua Gia Long mở đầu vương triều và Vua Bảo Đại, ông vua cuối cùng của nhà
Nguyễn đều tấn phong vợ mình lên ngôi Hoàng hậu? Nhiều người giải thích rằng, lệ
này kể từ triều Minh Mạng (1820-1840) trở về sau mới có. Đến đời Bảo Đại, ông
vua cuối cùng của nhà Nguyễn theo Tây học, nước mất chủ quyền, vua chỉ là hư vị
nên đã phá bỏ cái lệ ấy.
Những ngày cuối năm giáp tết, trời
Huế mưa nhiều, tôi đóng cửa nằm nhà đọc lại mấy bộ chính sử, cố tìm xem lệ (hay
luật) Tứ bất nằm ở sách nào để được thấu suốt vấn đề bấy lâu còn ngờ ngợ, nhưng
đành chịu.
Một lần, khi đọc bộ Đại Nam thực lục
chính biên, bộ sử chính thống của nhà Nguyễn và Nguyễn Phúc tộc thế phả cuốn
tộc phả chép khá đầy đủ về họ Nguyễn Phúc, tôi gặp một đoạn sử ghi khá kỹ về
việc phong tước Vương và thi cử, liên quan đến cái lệ Tứ bất này.
Về tước Vương không phong cho người
trong Hoàng tộc đương còn sống. Tôi phải nói ngay rằng đó là suy diễn sai.
Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả thì có
ít nhất 7 Hoàng tử được phong tước Vương khi còn tại thế.
Về thi cử. Khoa thi Kỷ Sửu, 1829, năm
Minh Mạng thứ 10. Nhà vua sai định lại phép thi Điện, Bộ Lễ tâu rằng: “Khoa
trước (tức khoa 1822 và 1826) duyệt quyển, chia làm (các hạng) ưu, bình, thứ,
xin theo như phép thi Hội mới định, đổi làm phân số, duy văn đình đối sự lý quan
trọng hơn, nên cho phân số nghiệt hơn một bực (như văn lý thi Hội được hai phân
(điểm) thì Điện thí cho một phân).
Nên quy định lại: phàm văn lý
được mười phân thì xin cho đỗ Đệ Nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ Nhất danh (Trạng
nguyên); chín phân thi đỗ Đệ Nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ Nhị danh (Bảng nhãn);
tám phân thì đỗ Đệ Nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ Tam Danh (Thám hoa); bản phân,
sáu phân thì lấy đỗ Đệ Nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp); năm phân trở
xuống thì Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Tiến sĩ). Trường hợp lâm thời mà
nhà vua đặc cách cho đỗ thì không kể theo lệ ấy. Lại như khoa trước bảng vàng
đóng ấn “Hoàng đế chi bảo”, nay xin đổi đóng ấn “Khâm văn chi tỷ”.
Lúc trước các quan sung vào làm việc
ở trường thi từ đầu là do Bộ Lại sao chép lời chỉ, nay xin được cấp “Chiếu văn”
để thi hành. Vua Minh Mạng y lời tâu ấy, cho thực hiện.
Khoa thi Điện năm Kỷ Sửu 1829, vua
Minh Mạng sai Tả Thống chế quân thị trung là Nguyễn Văn Trọng sung chức Giám
thị đại thần, Thượng thư Bộ Lại là Lê Đăng Doanh, Hữu Tham tri Bộ Lễ là Phạm
Huy Thực, Hữu Tham tri Bộ Binh là Lê Văn Đức, Hữu Thi lang Bộ Công là Hà Quyền
sung đọc quyển; Lang trung Bộ Hộ là Ngụy Khắc Tuần, Lang trung Bộ Binh là Vũ
Phan sung chức nhận quyển và duyệt quyển.
Sau hôm thi, vua Minh Mạng ngự chầu,
bảo với đám Phạm Huy Thực rằng: “Nước nhà mới trung hưng, đặt trường học, trọng
đạo nho, mở khoa thi, tuyển học trò. Trẫm theo chỉ của tiên đế, lấy việc cầu
nhân tài làm gấp ngoài việc khoa mục lại có cử tri. Tại sao gần đây người học
sâu rộng, im lặng không nghe thấy ai? Có phải là ở dưới hang núi người hiền đi
không trở lại, hay là nhân tài sụt đi mà thế chăng? Không phải trẫm dám nói vu
đâu”.
Qua đoạn chính sử trên, ta có thể
thấy rằng, ngay từ buổi đầu tổ chức thi đại khoa để chọn người hiền đức, đã
không có chuyện nhà Nguyễn “cấm” lấy người tài thi đỗ ở bậc cao nhất là Trạng
nguyên.
Có lẽ do khâu đọc quyển, nhận quyển
và duyệt quyển của các quan trường thời ấy quá khắt khe chăng, hay người tài
bấy giờ chưa ra với nhà Nguyễn, hoặc người hiền “dưới hang núi đi không trở
lại”.
Bởi vậy, cũng tại khoa thi Kỷ Sửu,
năm 1829, người đỗ Tam khôi không lấy được ai, nhưng người đạt phân điểm suýt
soát với bậc Tiến sĩ thì khá nhiều, nên vua Minh Mạng mới chủ trương: “Từ đây,
quy định mỗi khoa thi lấy thêm những người có phân điểm gần sát với Đệ Tam
giáp, nhưng tính riêng thành một bảng phụ, gọi là Phó bảng”. Như vậy Phó bảng
(còn gọi là Ất tiến sĩ, Chánh bảng hay Giáp bảng là tiến sĩ trở lên) cũng được chọn
luôn trong kỳ thi đại khoa, nhưng về mặt quyền lợi đãi ngộ thì không bằng những
người đỗ Chánh bảng.
Trong thực tế, dưới thời nhà Nguyễn,
nhiều người đỗ học vị Phó bảng ra làm quan, đem đức hạnh và trí lực thi thố với
đời rất nhiều người tài năng lưu danh sử sách, chẳng hạn các vị Phó bảng như cụ
Nguyễn Văn Siêu, cụ Phan Chu Trinh, cụ Nguyễn Sinh Sắc… Cũng có nhiều người chỉ
đỗ Cử nhân nhưng công nghiệp ích nước lợi dân của họ lưu danh muôn thuở, ví như
các cụ Nguyễn Công Trứ, Đặng Huy Trứ, Phan Bội Châu…
Như vậy, có thể thấy, qua 39 khoa thi
Hội (kể cả Ân khoa), dưới vương triều nhà Nguyễn, về văn lý chưa có bậc túc nho
nào đạt đủ thật mười phân điểm như yêu cầu để lấy đỗ Trạng nguyên. Nghĩa là đại
khoa vẫn chấm lấy Trạng nguyên nhưng do kẻ sĩ không đạt đủ chuẩn điểm mà thôi, nên
không cố lấy cho bằng được. Còn Đệ Nhị danh và Đệ Tam danh cũng có một số người
dành được bảng vàng, như Bảng nhãn Phạm Thanh người huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh
Hóa, Thám hoa Nguyễn Văn Giao người huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An… Vì thế,
có thể đây là cái cớ ngẫu nhiên mà sau này nhiều người cho rằng nhà Nguyễn
không lấy đỗ Trạng nguyên chăng?
Một khi ta chưa tìm thấy “hồ sơ của
lệ Tứ bất”, thì cũng không nên suy diễn lịch sử, nhất là khi mới chỉ thấy một
vài hiện tượng mà không thấu suốt bản chất của vấn đề.
http://www.baomoi.com/Home/GiaoDuc/www.anninhthudo.vn/Trieu-Nguyen-co-le-Tu-bat-hay-khong/6107351.epi