Năm
1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vâng lịnh chúa Nguyễn vào Nam kinh lược, quy
hoạch phần đất lưu dân ngừơi Việt khai phá từ trước, lập hai dinh Trấn Biên và
Phiên Trấn. Đến năm 1708, Mạc Cửu dâng vùng Hà Tiên để xin nội thuộc. Như vậy,
đến đầu thế kỷ XVII, vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu, mặc dù người Việt
đã khai phá từ lâu, nhưng chánh quyền chúa
Nguyễn vẫn chưa có điều kiện thiết lập cơ sở hành chánh để bảo vệ họ. Tình hình
này đặt chánh quyền Đàng Trong trong tình thế chẳng đặng đừng trên bước đường Nam tiến.
Năm
Đinh sửu (1757), Nặc-nguyên, quốc vương Chân Lạp mất, chú họ là Nặc-nhuận đang
làm giám quốc, xin hiến đất Srok Kleang
và Préah Trapeang (tức đất Trà Vang-Ba Thắc), cầu xin chúa Nguyễn phong làm
vua Chân Lạp, chúa Võ vương Nguyễn Phước Khóat chấp thuận.
Nhưng liền sau đó
Nặc-nhuận bị con rể là Nặc-hinh giết và cướp ngôi. Cháu Nặc-nhuận là Nặc Tôn,
chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, tâu với chúa Nguyễn xin được phong làm vua
Chân Lạp. Chúa Võ vương thuận cho, và sai tướng Thống suất ngũ dinh tại Gia
Định Trương Phước Du hợp cùng Mạc Thiên Tứ mang quân đánh dẹp Nặc-hinh và đưa Nặc-tôn
về nước. Nặc-tôn được phong làm phiên vương. Để tạ ơn, Nặc-tôn cắt đất
Tầm Phong Long (vùng đất giữa sông
Tiền và sông Hậu), phía bắc của vùng Srok
Kleang và Préah Trapeang, dâng
cho chúa Nguyễn.
Tiếp thu vùng đất Tầm Phong Long là một trong những sự kiện đặc biệt
trong lịch sử dân tộc, nó vừa góp phần mở rộng cương vực của Tổ Quốc ta về
phương Nam, vừa đánh dấu kết thúc diễn trình Nam tiến của dân tộc ta trong 775
năm (982-1757).
Vùng đất Tầm Phong Long, được Nguyễn Cư
Trinh lập thành ba đạo:
- Đông Khẩu
đạo bao gồm các huyện Châu Thành, thị xã Sa Đéc, huyện Lai Vung và huyện Lấp Vò
của tỉnh Đồng Tháp ngày nay. Trị sở đồn trú tại Sa Đéc (thôn Vĩnh Phước).
- Tân
Châu đạo bao gồm phần đất phía bắc sông Tiền, của các huyện Chợ Mới, Phú Tân,
Phú Châu và Tân Châu của tỉnh An Giang ngày nay, trị sở lúc đầu đóng trên cù
lao Gieng, sau dời về thôn Long Sơn, trên cù lao Cái Vừng.
- Châu Đốc đạo bao gồm phần đất phía tây bắc
sông Hậu, giáp với vùng Hà Tiên.
Dưới
thời các chúa Nguyễn, đạo là phân hạt hành chánh dưới trấn và dinh, dành cho
những vùng đất mới tiếp quản, mới khai hoang, dĩ nhiên là ở đây chưa có bộ máy
hành chánh cơ sở hoàn chỉnh, nên phải giao cho các đơn vị quân đội quản lý
(hình thức quân quản), cho đến khi thiết lập xong bộ máy quản lý hành chánh dân
sự mới trở thành đơn vị hành chánh cấp huyện.
Ngay sau khi thành lập, cả ba đạo đặt
dưới sự quản lý của dinh Long Hồ, đứng đầu là Nguyễn Cư Trinh. Dinh Long Hồ lập
năm 1732 (còn gọi là Cái Bè dinh, vì đóng tại Cái Bè), năm 1800 đổi thành Vĩnh
Trấn, năm 1808 đổi thành trấn Vĩnh Thanh. Để có phản ứng nhanh và hiệu quả
trong việc bảo vệ biên cương, Nghi biểu hầu Nguyễn Cử Trinh cho dời trị sở của
dinh Long Hồ từ An Bình Đông (Cái Bè) về xứ Tầm Bào ( thuộc thôn Long Hồ, thành
phố Vĩnh Long ngày nay), sát bờ sông Tiền, dòng sông rộng, chiến thuyền dễ dàng
tiến thóai hơn ở sông Cái Bè.
Từ
đây dinh Long Hồ có Đông Khẩu đạo án ngữ làm tiền đồn thứ hai sau Tân Châu đạo
và đồn Châu Đốc bảo vệ. Để khai thác vùng tân cương, đồng thời để xác định biên
giới rõ rệt giữa hai nước, măc dù có sự can ngăn của quan lớn Sen Nguyễn Văn
Nhơn, năm 1817, vua Gia Long vẫn lịnh cho Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại đào
kinh núi Sập (sau gọi là Thoại Hà). Hai năm sau (1819) lại cho đào kinh Vĩnh
tế, kéo dài 5 năm mới xong.
Đào hai con kinh này quả có tác dụng vô cùng quan
trọng trong công cuộc mở mang kinh tế và giữ yên bời cõi. Ngay khi kinh Vĩnh Tế
đào chưa hoàn tất đã thu hút lưu dân đến dâng đơn xin khai khẩn sinh sống. Lúc
bấy giờ Nguyễn Văn Thoại là Khâm sai Thống chế, án thủ đồn Châu Đốc, lãnh ấn
Bảo hộ Cao Miên quốc, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ, chỉ cần ông phê duyệt và
đóng dấu Bảo hộ Cao Miên quốc chi
chương vào đơn là coi như lưu dân có bằng
khoáng đất (sổ đỏ). Nên chỉ hơn mươi năm, đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vùng
đất mới này thành được hai phủ:
-
Tuy Biên gồm hai huyện Tây Xuyên,
Phong Phú.
-
Tân Thành có hai huyện là Vĩnh An và
Đông Xuyên.
Đây
là cương vực ban đầu của tỉnh An Giang sau này. Đến năm 1835, lấy đất Ba Thắc
lập thêm phủ Ba Xuyên, cai quản ba huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định.
Đến năm 1836, chia ra thành hai tỉnh Vĩnh Long và An Giang.
Lúc này Tân Châu đạo thuộc huyện Đông Xuyên và Đông Khẩu đạo thuộc huyện
Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang.
Tiếp theo năm 1839, lập thêm huyện An Xuyên ở phủ
Tân Thành, năm 1842 lấy phủ Tịnh Biên v à huyện Hà Dương của Hà Tiên xáp nhập
vào. Đến năm 1844, lập thêm huyện Hà Âm. Năm 1850, giải thể phủ Tịnh Biên cùng
huyện Hà Âm, lấy đất này nhập vào huyện Hà Dương[1][1].
Như vậy đến khi Tự Đức lên ngôi, tức là gần tròn
100 năm sau khi thuộc chủ quyền người Việt, vùng Tầm Phong Long được khai mở
với tiến độ khá nhanh, thành lập 274 xã thôn, phường, bang, được quy vào ba phủ
với 10 huyện, nằm trong địa phận tỉnh An Giang, tỉnh thành đặt tại Châu Đốc:
- Phủ Tuy Biên, có bốn huyện:
+ Tây Xuyên gồm ba tổng
với 38 xã, thôn, phố bang,
+ Phong Phú gồm ba tổng
với 31 thôn,
+ Hà Dương (tức Lình
Quỳnh) có 4 tổng với 40 thôn, phố phường.
+ Hà Âm (tức Giang Thành) gồm 2 tổng, 40 xã thôn
- Phủ Tân Thành có ba huyện:
+ Vĩnh An gồm 4 tổng với
36 xã thôn, phố, bang, huyện lỵ đóng tại thôn Vĩnh Phước (Sa Đéc)
+ An Xuyên gồm 3 tổng
với 25 xã thôn, huyện lỵ đặt tại thôn Tân Hựu.
+ Đông Xuyên gồm 4 tổng
với 33 xã thôn, huyện lỵ đóng ở thôn Long Sơn.
- Phủ Ba Xuyên có hai huyện:
+ Phong Nhiêu gồm 3 tổng với 17 xã
thôn, huyện lỵ tại thôn An Khánh
+
Vĩnh Định gồm 4 tổng với 19 xã thôn, huyện lỵ tại thôn Đại Hữu.
Năm
1867 Pháp chiếm An Giang, chia vùng này ra 5 hạt (rồi đổi hạt thành tỉnh): Châu
Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Sa Đéc...
Ngày nay thuộc địa phận các tỉnh An Giang, Tp.Cần
Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và các huyện nam sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp.
1.- Vùng đất
Đông Khẩu đạo được lưu dân người Việt, người Hoa khai thác từ lâu, nay chánh
thức nội thuộc chủ quyền người Việt của chúa Nguyễn (Đàng Trong). Sự kiện này
là điều kiện vô cùng thuận lợi cho công cuộc khai mở cương vực của Tổ quốc về
phương nam, góp phần phát triển kinh tế xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long và cả Nam bộ. Đây là
vùng đất mầu mở “sông sâu nước chảy”, nằm giữa sông Tiền, sông Hậu,
chiếm vị trí trung tâm của Nam bộ, là đầu cầu nối liền miền Đông và miền Tây
Nam bộ.
Từ
đây người Việt, người Hoa chánh thức khai thác, làm ăn, mua bán…Chẳng bảo lâu
trên địa bàn của đất Đông Khẩu đạo thành lập được trên 60 thôn làng, trong đó
có nhiều thôn đạt diện tích khai thác thuộc loại lớn ở Nam Bộ, như Tân Hựu, Tân
Long, Long Hậu, Tân Lộc, Vĩnh Phước…Dân cư tập trung ngày một đông, nhiều tụ
điểm cư dân hình thành về phía sông Tiền; ngoài Sa Đéc, : Nha Mân [2][2],
Cái Tàu Hạ [3][3],
Tòng Sơn, Cái Tàu Thượng; về phía sông Hậu có Cường Oai (Lai Vung), Cường Thành
(Lấp Vò)…
Người
Hoa đến đây đa phần là người Phước Kiến giõi buôn bán hơn làm ruộng, nên chỉ có
thiểu số làm nghề nông chung với người Việt hai bên bờ rạch Nha Mân. Điều này
được Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam
Vịêt chép: “ Sông Nha Mân ở phía bắc
huyện An Xuyên ở bờ nam sông Tiền, chảy qua hướng nam rồi chuyển lên hướng tây,
chẻ ra các ngã: Tam Sao/Ba Miếu, Chàng Trà/ Trà Kiệt, Cổ Đồ Bà/ Cha Và, Cam Phù
Ly, rồi đến Bồn Giang/Cái Vồn chảy ra sông Hậu. Dọc theo hai bờ sông có nhiều
ruộng vườn của người Tàu mới khai phá” [4][4] .
Người
Hoa thu mua các sản phẩm khai thác từ
nguồn lợi tự nhiên (cá, tôm, mật ong, gổ, mây tre, dầu rái, lông chim, lúa gạo,
cau…) bàn cho các chợ lớn như Sa Đéc, Long Hồ, Mỹ Tho… rồi mua hàng vải tơ lụa,
cao đơn huờn tán, kim chỉ đá lửa…về bán lại cho dân địa phương, từng bước góp
phần hình thành một số chợ trong khu vực. Chợ Nha Mân hay rộng hơn là vùng Tân
Hựu là trung tâm của vùng tập trung dân cư khá đông (Việt, Hoa, Khmer) , vì vị
trí nằm giữa Long Hồ và Sa Đéc, lại thêm thổ nhưỡng rất đặc biệt, nhứt là nước
sông Nha Mân rất ít độ phèn so với toàn vùng, rất thuận lợi cho phát triển nghề
nông, làm vườn. Câu: “Gà nào hay bằng gà
Cao Lãnh, gái nào bảnh bằng gái Nha Mân”nhằm ngợi ca sắc đẹp người con gái
Nha Mân nhứt là nước da trắng ngần. Có thể nói yếu tố quan trọng góp phần làm
nên cái đẹp này là do nguồn nước ở đây, hai là do yếu tố lai trong hôn nhân
(Hoa+Khmer hoặc Việt+ Hoa). Thôn Tân Hựu
có diện tích rụông đất canh tác lớn nhứt toàn Nam kỳ, với diện tích thực canh
4848 mẩu. . Nếu lấy thôn Tân Hựu làm tiêu biểu cho cả vùng tổng An Mỹ (huyện
Châu Thành, Đồng Tháp hiện nay) thì có
thể nói rằng đời sống nhân dân trong vùng tương đối khá giả, nhứt là thôn Tân
Hựu. Qua câu:“Ngồi chình ình như cột đình
Tân Hựu” ta hình dung được tình trạng kinh tế ở đây. Nhân dân có sức đóng
góp để xây dựng đình làng to lớn với mấy chục bộ lư đồng, nổi tiếng cả Nam kỳ.
Năm
Minh Mạng thứ 20 (1839), huyện Vĩnh An tách ra làm hai thành lâp huyện mới mang
tên An Xuyên, gồm ba tổng (An Hội, An Trường và An Mỹ) với 25 thôn. Trị sở của huyện đóng tại thôn
Tân Hựu, châu vi trụ sở rộng 50 dặm, có hào thành rào bằng tre[5][5].
Chung quanh dinh thự tại huyện lỵ tập trung nhiều dân cư buôn bán ngày một sung
túc, được dân gian quen gọi là chợ Dinh. Câu :
“Đố anh con
rít mấy chưn,
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người;
Chợ Dinh bán
áo con trai,
Chợ Trong bán chỉ, chợ Ngoài bán kim…”
ca
ngợi sự sung túc của chợ Dinh, nhưng không biết ám chỉ chợ Dinh nào, vì có một
số chợ ở nơi khác cũng mang tên chợ Dinh.
Riêng
Sa Đéc hình thành từ lâu, trước khi Đông Khẩu đạo ra đời, nay lại có điều kiện
phát triển hơn với phố thị buôn bán tấp nập, trở thành một trong trung tâm
thương mại lớn ở đồng bằng sông Cửu Long lúc bấy giờ. Bên cạnh đình, chùa, miếu
mạo… của ngừơi Việt là chùa ông (Kiến an cung, Thạnh đức cung, Nghê thánh
cung), chùa bà (Thiên hậu) và các miếu vạn, miếu tổ nghề, của người Hoa. Mức
phát triển thạnh mậu của Sa Đéc là bước ngoặc quan trọng trong tiến trình kinh
tế-xã hội của Đông Khẩu đạo và cả đồng bằng sông Cửu Long. Nó đánh dấu thành
công bước đầu của công cuộc khai, kích thích vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tây sông
Hậu phát triển, nó còn là chợ đầu mối tập trung hàng hoá chuyển đi Mỹ Tho, Sài
Gòn, Nam Vang …góp phần hình thành nền kinh tế hàng hoá ở khu vực.
Trong cuộc nội
chiến Tây Sơn-Nguyễn Ánh (1777-1802), sau bao nhiêu lần thảm bại trước lực
lượng bách chiến bách thắng của Tây Sơn, năm 1788, Nguyễn Ánh về lập căn cứ ở
Tân Long (Long Hưng), kề cận Sa Đéc. Lợi dụng chánh quyền cơ sở của Đông định
vương Nguyễn Lữ (Tây Sơn) trên địa bàn này còn quá non yếu vì mới thành lập,
chưa thực hiện được công trình kinh tế-xã hội nào nhằm cải thiện, phục vụ đời
sống cho nhân dân địa phương. Nguyễn Ánh triệt để khai thác lợi thế về vị trí
và vai trò của con người và vùng đất Đông Khẩu đạo. Biến nơi này thành trung
tâm thu hút nhiều quan văn, võ tướng, đại điền chủ trung thành với quan niệm
tôn phò “chính thống”. Thế lực này đã góp phần giúp Nguyễn Ánh đánh bật
Tây Sơn ra khỏi Nam bộ, làm đà cho công cuộc phục thù giai cấp của họ
Nguyễn. Cuộc nội chiến vô hình trung biến vùng Đông Khẩu đạo thành
nơi tập trung một số môn đồ Nho học, ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi Nho học vốn
chưa phổ biến sâu rộng. Điều này tác động không
nhỏ đối với đến quá trình hình bản sắc văn hoá địa phương.
2.-
Ngay sau khi thành lập, đạo Tân Châu đặt dưới sự quản lý của dinh Long Hồ, năm 1800 đổi thành Vĩnh Trấn, năm 1808 đổi
thành trấn Vĩnh Thanh. Đến năm 1836, chia ra thành hai tỉnh Vĩnh Long và An Giang.
Lúc này Tân Châu thuộc phủ Tân Thành huyện Đông Xuyên, tỉnh An Giang.
Đất Tân Châu như những chiếc chiến hạm khổng lồ, nằm án ngữ trên dòng sông Cửu
Long, ngăn chận sự xâm nhập từ hướng Chân Lạp (Campuchia ngày nay).
Để có phản ứng
nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nguyễn Cử Trinh lấy Dinh châu
làm trị sở của Tân châu đạo [6][6].
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép rõ: “Dinh châu, tục gọi là cù lao
Gieng ở thượng lưu sông Tiền, cách trấn về phía Tây 117 dặm. Trước kia là đất
thuôc đạo Tân Châu. Ở đây có dân cư của bốn thôn: Toàn Đức, Mỹ Hưng, Toàn Đức
Đông, Phú Hưng. Phía Tây có cù lao nhỏ cư dân của các thôn: Tân Phước, Phú An
và Tân Tịch (tức cù lao Trâu, còn gọi là Ngưu châu). Phía Nam có cù lao
nhỏ cư dân của thôn Tân Thới”.
Tại đây có xây
dựng một đồn lớn giữa hai sông làm trung tâm kiêm quản luôn cả hai thủ Chiến
Sai và thủ Hùng Ngự. Do đồn Tân Châu vừa
trú đóng nơi địa đầu hiểm yếu vừa cai quản hai
thủ khác, nên Tân Châu không thuộc quyền cai quản của trấn địa phương là
Long Hồ, rồi sau đó là Vĩnh Thanh mà trực tiếp thuộc quyền điều động của Gia
Định phủ rồi Gia Định thành tức là chánh quyền trung ương của Nguyễn Ánh. Điều
đó cho thấy vai trò, vị thế của Tân Châu đạo trong việc bảo vệ tuyến biên giới
Tây nam. Trên tuyến này từ Tây Ninh đến Hà Tiên, dưới thời chúa Nguyễn và đầu
nhà Nguyễn, có bố trí các đồn thủ biên phòng, như Quang Hoá (Tây Ninh), Tuyên
Oai, Thông Bình, Hùng Ngự (Định Tường), Tân Châu, Chiến Sai, Châu Đốc (An
Giang)…Trong đó, đồn Tân Châu nằm ở vị trí đặc biệt nhứt.
Trong thời
gian cuộc nội chiến Tây Sơn-Nguyễn Ánh (1777-1802), năm 1790, nhằm tập trung thu
hút hàng hoá bán cho thương nhân phương Tây để mua vũ khí theo đuổi chiến
tranh, chánh quyền Nguyễn Ánh ở Gia Định cấm thuyền buôn, không được đi qua các
đạo Quang Hoá (Tây Ninh), Tuyên Oai, Thông Bình để sang buôn bán với Chân Lạp
và năm 1791 lại ra lịnh cho đạo Tân Châu phải cách hạn chế, ngăn chận việc các
sứ bộ Chân Lạp “lợi dụng hộ chiếu ngoại
giao” mà sang buôn bán dọc sông Tiền [7][7].
Năm 1795, để
lấy lòng người Chân Lạp với mục đích giữ yên vùng biên giới Tây nam, để tập
trung vào việc chuẩn bị binh lực tiến công Tây Sơn ở miền Trung, chánh quyền
Gia Định trao trả 68 sở thuỷ lợi ở vùng biên giới (trên sông Sở Thượng và Sở
Hạ) cho chánh quyền Chân Lạp. Điều này càng làm cho trách nhiệm giữ yên biên
giới của Tan Châu đạo nặng nề hơn, vì trước đây có các sở cá này làm vùng đệm,
nay đồn Tân Châu phải tiếp cận sát sườn với Chân Lạp.
Đến năm Gia
Long thứ 2 (1803), sau khi hoàn thành việc thống nhứt đất nước do yêu cầu bảo
vệ biên giới ngày càng cao, đồn Tân Châu được củng cố nhiều mặt, ngoài việc
tăng cường quân số còn đặt thêm chức đạo thủ.
Năm 1813, quân
Xiêm xâm lược Chân Lạp, quốc vương Châp Lạp là Nặc-chân chạy sang An Giang. Đô
thống Trần Văn Năng, một mặt tăng cường quân lực phòng bị Tân Châu, mặt khác
dâng tấu sớ đề nghị đánh lấy Nam Vang để dằn mặt quân Xiêm, nhưng vua Gia Long
cho rằng quân Xiêm tuy nhiều, nhưng không đáng lo, không cần ra tay trước [8][8].
Đến năm Gia
Long thứ 17 (1818), tình hình trong nước biên giới ổn định, triều đình ra lịnh
dời đạo thủ Tân Châu đến cù lao Long Sơn, dời đạo thủ Chiến Sai đến cửa trên
sông Hiệp Ân (sông Hồng Ngự nay nay),
dời đạo thủ Hùng Ngự đến cửa dưới sông Hiệp Ân. Tháng 12, Khâm mạng Tả
quân phó tướng, Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân huy động dân, binh
đắp đồn Tân Châu. Đồn hình vuông, mỗi
cạnh dài 15 trượng, cao 6 thước 5 tấc ta, chân dày 15 thước ta, đầu hẹp 4
thước, có hai cấp; chỗ ngay ở giữa của 4 mặt đồn đều đắp nhô ra thành hình bát
giác, phía trái và phải gần trước góc nhọn ấy đều có cửa làm chỗ cho biền binh
phòng trú. Quy cách đồn Chiến Sai cũng phỏng theo đồn này, chỉ có đồn Hùng Ngự
hơi kém hơn, chỉ để làm nơi tuần tra, chưa xây đắp thành [9][9].
Về cù lao Long
Sơn, Trịnh Hoài Đức chép trong Gia Định Thành thông chi như sau: Cù lao Long
Sơn hay Long Sơn châu có tục gọi cù lao Cái Vừng, ở thượng lưu sông Tiền, dài
47 dặm, lồi lõm, góc cạnh giống như đầu rồng, phía đông cách thủ đạo mới Tân
Châu 5 dặm rưởi, cách trấn về phía tây 174 dặm rưởi, xóm Tân Phú Lâm ở đấy.
Phía đông có cù lao Tản Dù, cù lao Đồ Bà (Chà và). Tất cả giăng thành hình chữ
nhất mà có lớn nhỏ thứ tự khác nhau. Nơi đây tre um tùm, đường sông thông nhau.
Bờ Tây có đồn mới Tân Châu, bờ phía đông là đồn mới Chiến Sai, phía bắc là đồn
mới Hùng Ngự (Hồng Ngự), có địa thế là một ải quan hùng mạnh chặn giữ chỗ hiểm
yếu [10][10].
Theo nhận định
của Trịnh Hoài Đức, ta thấy khi dời đạo thủ Tân Châu lên cù lao Long Sơn, có
nhiều lợi thế hơn khi đóng ở cù lao Gieng. Vừa gần biên giới hơn, thay vì trước
đây ở sâu trong nội địa. Đặc biệt là thủ Hùng Ngự ở phía bắc, trước đây đồn ở
vàm Đốc Vàng, rất sâu trong nội địa, nay dời lên sông Hiệp Ân, phối hợp với thủ
Chiến Sai mới đóng vai trò tiền tiêu cho đồn Tân Châu. Cả ba đồn kết hợp với
đồn Châu Đốc ở Hậu Giang và đồn Châu Giang trên cù lao Châu Giang thành thế
liên hoàn ứng cứu lẫn nhau khi có biến.
Năm 1830, để cho nhân dân địa phương
tham gia việc bảo về quê hương, chánh quyền chủ trương mộ dân cả ngoại tịch (là
dân ngụ cư) thành lập ba đội An Châu thay thế quân chánh quy ở Gia Định, chia
nhau giữ các đạo, thủ Hồng Ngự, Tân Châu [11][11].
Trong các năm 1833-1834, một sai lầm
của Lê Văn Khôi trong cuộc nổi dậy chiếm thành Phiên An (Gia Định), sau đó bị
triều đình phản công, Khôi bị bao vây trong thành. Khôi cho người cầu cứu quân
Xiêm, biến địa bàn Tân Châu thành địa đầu chiến đấu giữ nước vang danh với
chiến thắng Vàm Nao-sông Tiền (1834).
Nước Xiêm dưới triều đại Rama III
(1824-1851), rất mạnh về quân sự, luôn có tham vọng “đông tiến”. Năm 1828, họ
chiếm Vạn Tượng (Lào). Khi được Lê Văn Khôi cầu cứu, không một lời tuyên chiến,
Rama III tập trung 30.000 quân, tràn sang toàn tuyến biên giới phía tây nước ta
với 5 cánh quân. Ba cánh đấu đánh vào Cam Lộ, Cam Cát, Cam Môn (Quản Trị) và
Trấn Ninh (Nghệ An), chỉ nhằm mục đích phân tán binh lực của ta. Hai cánh chủ
yếu là một đánh vào Hà Tiên với 100 chiến chiến thuyền, làm thế ỷ giốc cho cánh
chính diện đánh chiếm Nam Vang rồi tiến xuống hạ thành Châu Đốc (An Giang), với
hơn một vạn binh thủy bộ hòng chiếm cho được toàn Gia Định.
Người Xiêm lúc nào cũng bị ám ảnh bởi
cuộc thảm bại tại Rạch Gầm-Xoài Mút (1785), nên trong quyển “Annam Xayảm Ýưt” (Chiến cục An
nam-Xiêm), mô tả trong bối cảnh chuẩn bị mang quân sang can thiệp vào Việt Nam
48 năm sau, khi Lê Văn Khôi sang cầu cứu (1833-1834), có đoạn viết : “ ...Ở
cù lao Teng này, trước đây trong thời vua thứ nhứt (Rama I), cháu vua là
Chauphá Krômmaluổng Thêp-hạrịrắc (tức Chiêu Tăng) làm tổng chỉ huy quân
đội đánh nhau với Yuồn ở trên cù lao Teng một lần rồi, quân đội ta bị đánh tan,
chạy trốn Yuồn, làm cho Ngài bị bắt giam khá lâu. Cù lao Teng này (tức cù
lao Thới Sơn) là trận địa chiến thắng của bọn Yuồn, chúng từng đại thắng ở
đây nhiều lần. Bọn chúng sẽ lập mưu lừa
chúng ta ở đây một lần nữa. Ngài hảy quan tâm đề phòng để bảo toàn tính mạng và
danh dự ở cù lao này để được tiếng tăm lâu dài về sau” [12][12].
Dù lo lắng đề phòng như vậy, nhưng
cuối cùng quân Xiêm cũng thảm bại trên sông Vàm Nao, rút chạy khỏi thành Châu
Đốc.
3.- Đạo Châu Đốc với đất đai trải dài dọc theo biên
giới Chân Lạp, bên cạnh công lao khai hoang mở cõi, các thế hệ trước còn đỗ
nhiều xương máu để giữ yên cương vực trong suốt một thời gian dài đương đầu
chống lại âm mưu đông tiến của người Xiêm, thường tận dụng mọi cơ hội để ra
tay.
Năm 1840, ngừơi Chân Lạp ở Tịnh Biên nổi loạn, quan
phủ hoảng sợ. Loạn quân kéo về Hà Tiên đánh phá đồn Châu Nham (Đá Dựng). Trong
khi đó, 2000 loạn quân khác từ Thất Sơn xuống đánh phá Rạch Giá, rồi đóng đồn
trụ lại. Vùng biên giới Thất Sơn-Vĩnh Tế (huỵên Hà Dương, Hà Dương) chìm trong
khói lữa chiến tranh. Sở dĩ loạn quân dám ngạo mạng như vậy là vì lúc bấy giờ
tướng Bodin (Phi Nhã Chất Tri) cuả Xiêm đóng đồn dọc theo kinh Vĩnh Tế (trên
đất Chân Lạp) hỗ trợ xúi dục. Triều đình phái Nguyễn Tri Phương mang quân đánh
dẹp suốt cả năm mới yên.
Đến tháng 9 năm Tân sửu (1841), lợi dụng khi quân
ta do Trương Minh Giảng thống lĩnh, rời Chân Lạp về nước, người Xiêm dựng lên
một hoàng tôn (cho là con hoàng tử Cảnh, cháu nội đích tôn của vua Gia Long,
người chánh thức được lên ngôi sau khi Gia Long băng hà, chớ không phải hoàng
tử là Đảm, tức Minh Mạng), tập hợp một số người Lào, Chân Lạp, Việt...về nước
giành lại ngôi báo, dưới sự bảo trợ của họ. Ở đây người Xiêm tiếp tục khai thác
mâu thuẩn giữa Lê Văn Duyệt và vua Minh Mạng để can thiệp vào nội tình nước ta.
Nguyên khi Hoàng thái tử Cảnh qua đời vào năm 1801, Gia Long không lập con cháu
dòng chánh làm thái tử kế vị (tức con của hoàng thái tử Cảnh lả Nguyễn Phước Mỹ
Đường), mà chọn con dòng thứ là hoàng tử Phúc Kiểu, huý là Đảm, làm thái tử tức
vua Minh Mạng sau này. Sở dĩ Gia Long bỏ trưởng lập thứ, vì Mỹ Đường theo đạo
Thiên chúa, nhưng Lê Văn Duyệt không hiểu ngầm ý của Gia Long hết lời can ngăn.
Để thực hịên âm mưu này, tháng giêng năm Nhâm dần
(1842) Phi Nhả Chất Tri sai tướng Ô Thiệt Vương cho thuỷ quân tấn công Phú Quốc
thăm dò, trên bộ, cho khoảng 5000 quân hộ tống hoàng tôn đến Sách Sô (thuộc hạt
Nam Ninh, trấn Tây Thành) và 10 thuyền
đến đồn Cần Thăng thám sát, kích động người Chân Lập nổi dậy ở phủ Ba Xuyên,
Sóc Trăng, Thất Sơn... Qua tháng hai, chúng xua đại quân tràn qua kinh Vĩnh Tế
kết hợp với quân nổi dậy đánh phá các đồn Thất Sơn, Tân Châu, An Lạc, Hồng Ngự,
Thông Bình…cướp bóc, bắn giết…gây thảm cảnh tang tốc thê lương khắp tuyến biên
giới, nhứt là ở Hà Tiên, chúng dùng súng lớn (viên đạn 3 tấc rơi xuống tan như
mưa[13][13])
bắn suốt ngày đêm, gây nhiều thiệt hại cho dân thường (trong dân gian gọi là
giặc Hà Tiên). Quân triều huy động quân binh cả sáu tỉnh Nam kỳ do tổng đốc
Định-Biên Lê Văn Đức làm tổng thống quân vụ, thự tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri
Phương, tổng đốc An Hà Phạm Văn Điển cùng đề đốc An Giang chia đường cùng nhân
dân địa phương ra sức đương cự với giặc trên một tuyến dài từ Tiền Giang qua
Hậu Giang, Thất Sơn đến tận Hà Tiên. Bước đầu ngăn chận được sức tiến của giặc,
nhưng chúng chưa chịu rút lui. Mà xây thành đấp luỹ trụ lại ở núi Cô Tô, một vị
trí hiểm ở Thất Sơn, với âm mưu lâu dài.
Đến tháng năm, ta tăng cường quân số, chia làm năm
mũi tiến đánh, phá tan chiến luỹ ở núi Cô Tô của quân giặc, có đến cả ngàn ra
hàng trong đó phần lớn là người Hoa và Chân Lạp. Thừa thắng ta truy đuổi giặc
đến tận Phnom Pênh và Kompong Luông. Về thành Châu Đốc, tháng giêng năm Quý Tỵ
(1833) vua Minh Mạng thấy đồn Châu Đốc chật hẹp, chưa được tiện lợi, nên khiến
cho quan Giám thành theo Trấn thủ Ngô Bá Nhơn, nhắm lựa chỗ nào sảng khái và
đón được hai ngã sông Tiền, sông Hậu, mà đường đất vừa cân để làm thành tỉnh.
Rồi lựa xứ Long Sơn ở về thượng du, địa thế cao ráo, qua lại tiếp ứng, thiệt là
chỗ hình thế hiểm trở, bèn đem việc ấy tâu lên. Vua khiến Bộ Công vẽ đồ thức
đắp thành. Nhưng do tình hình biên giới lúc bấy giờ rất phức tạp, hễ dẹp yên
nơi này thì nơi khác lại ứng lên, thành thử việc dời thành tỉnh bị bỏ trôi,
cuối cùng vẫn giữ y ở Châu Đốc.
Nếu
trong buổi đầu Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh là người quy hoạch đất đai, thiết
chế hành chánh, xây dựng đồn bảo, điều động binh lính bảo đảm an ninh vùng đất
mới, thì Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại là người đã từng trực tiếp đốc suất
việc đào kinh Vĩnh Tế, mở ruộng lập vườn, đắp nhiều đường, bắc cầu để phục vụ
yêu cầu giao thông trong xứ và với nước láng giềng Chân Lạp, sau đó Doãn Uẩn,
tổng đốc An Hà, ngoài đại công dẹp loạn, ông còn đặc biệt quan tâm ổn định đời
sống nhân dân, chăm lo cả về sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng, tạo niềm tin, chỗ
dựa tinh thần với ước vọng an lành cho cuộc vùng biên giới tây nam Tổ quốc.
Chùa Tây An được Doãn Uẩn chủ trương xây dựng trong niềm ước vọng đó.
Nhưng
có một người không phải là quan chức nhà nước, không hưởng bổng lộc của triều
đình, bị giam lỏng trong chùa Tây An,
lại góp phần không nhỏ trong công cuộc “an tây”, từ quy dân khai hoang lập ấp đến khai sáng ra một mối
đạo, mà hàng trăm năm sau có tới hàng triệu tín đồ khắp đồng bằng sông Cửu
Long. Vị đó là Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên, người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương...
[14]1] Quốc sử quán (1972) Đại nam nhất thống chí
lục tỉnh Nam
Việt, Phủ quốc Vụ khanh đặc trách văn hoá (Sài Gón), tr,9.
[15][2] Nha Mân: Theo di
cảo của Trương Vĩnh Ký là do tiếng Oknà Mẳn. Tuy nhiên cũng có người cho rằng
là do Oknà Muôl vì nó gần với âm /nha mân/ hơn. Oknà hay Oknha là một quan chức
của người Khmer/Chân Lạp có quyền cai quản một trấn, một hạt.
[16][3] Theo nhà Nam bộ học Sơn Nam, Cái Tàu là địa danh chỉ nơi có
nhiều người Tàu cư ngụ. Cái Tàu Hạ để phân biệt với Cái Tàu Thượng ở Hội An
(nơi giáp ranh giữa hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Ở Nam bộ, ngoài hai địa
danh này còn có địa danh Cái Tàu và Ngã Ba Tàu ở Cà Mau. Nơi đây cũng là nơi có
nhiều người Tàu cư ngụ, nhưng cũng là nơi bọn cướp biển Tàu Ô thường lẫn trốn
và tại ngã ba này có một doi đất hình mũi tàu nhô ra. (Xem thêm sách “Tìm hiểu địa danh Nam Bộ của
Nguyễn Hữu Hiếu, Nxb. KHXH, 2005). Trong Bản dịch Đại nam nhất thống chí, tập
5 của Viện sử học, Nxb Thuận Hoá, 2006,
ở trang 201 và 204, dịch tên hai con rạch Cái Tàu Hạ là kênh Hạ Thuyền và rạch
Cái Tàu Thượng là kênh Thượng Thuyền
nghe rất xa lạ, không biết hai con rạch này trên thực địa nằm ở đâu!