Lê Thời Tân
Trong thực tế lịch sử,
chữ viết hoặc nói văn tự dường như là gắn liền với tôn giáo, nói rộng hơn gắn
liền với văn hoá. Du nhập và truyền bá văn hoá trong đó bao gồm việc truyền đạo
mang theo sự phổ biến và chọn dùng một thứ văn tự.
Sau mấy trăm năm kể từ
khi được truyền vào đế quốc La Mã, Ky Tô giáo đã trở thành quốc giáo của đế chế
vào năm 380. Ky Tô giáo ban đầu dùng khẩu ngữ để phổ biến giáo lý cho số đông
dân thường mù chữ trong lúc thiểu số quý tộc biết chữ sử dụng tiếng La tinh
dưới dạng văn viết (tương tự như văn ngôn của Hán ngữ). Việc đó cũng giống như
Phật giáo dùng hình thức thuyết xướng trực tiếp phổ biến kinh nghĩa cho dân
thường Trung Quốc buổi đầu (văn tự Phạn đã không truyền được vào Trung Quốc, sư
tăng trí thức Trung Hoa đã chủ động dịch lấy kinh Phật). Sau đó nhằm mục đích
phiên dịch Kinh Thánh Ky Tô giáo đã dùng chữ cái La tinh phiên-ghi âm
cho một số thứ tiếng châu Âu. Một số dân tộc ở châu Âu nhờ đó đã có chữ viết.
Từ một nền ngữ văn La tinh thống nhất dùng chung trong toàn đế quốc La Mã đi
đến chỗ các nước lần lượt có được chữ viết cho dân tộc mình – đó là một chặng
đường quan trọng của lịch sử Tây Âu. Tình hình khác với đế chế Tần nhất thống
văn tự (thư đồng văn) để thống nhất đế quốc Trung Hoa.
Vào thời
trung đại, các đế quốc phương Tây đã đưa chữ viết La tinh đến với các quốc gia
trên hầu khắp các châu lục. Đó không chỉ là hậu quả của vũ lực quân sự mà còn
là kết quả của sức mạnh văn hoá. Nếu không nhận định như vậy ta hẳn sẽ rất ngạc
nhiên trước việc quốc gia hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ năm 1924 chủ động đổi từ văn tự Ả
Rập sang dùng chữ cái La tinh.[1]
Chính vào lúc đó kinh Coran được dịch ra tiếng Thổ. Một năm sau khi quốc
hội Thổ ban hành các đạo luật về văn tự mới, tỷ lệ 90 phần trăm dân số mù chữ
đã giảm xuống một nửa. Từ sau đệ nhị thế chiến, ngày càng có nhiều nước Hồi
giáo chọn dùng chữ cái La tinh.
Ky tô giáo
dường như không có ý thần thánh hoá văn tự. Ngay từ thời đại La Mã, Ky Tô giáo
đã hướng tới đại chúng, đem cái suy tưởng về kiếp sau phổ biến vào dân chúng.
Đó là một bổ sung cho văn hoá chỉ nhấn mạnh đến quý tộc và chỉ biết có mỗi hiện
thế kiếp này của đế chế La Mã. Các nhà truyền đạo Ky Tô biết Kinh Thánh
cả Cựu ước lẫn Tân ước đều vốn được viết ra không phải bằng văn
tự La tinh. Nhưng lịch sử tồn tại của Kinh Thánh là lịch sử của sự phổ
biến các bản dịch Kinh Thánh ra các ngôn ngữ đã dùng chữ cái La tinh. Vả
chăng bảng chữ cái La tinh cũng có nguồn gốc từ bờ đông Địa Trung Hải. Trước
lúc ổn định thành cái gọi là bảng chữ cái La tinh dùng dưới thời đế chế La Mã,
chữ cái ghi âm đã kinh qua cả một chặng đường hơn chục thế kỷ (lâu đời không
kém văn tự giáp cốt của Trung Hoa).
Hai mươi
sáu chữ cái La tinh phối hợp với nhau kèm theo một số kí hiệu gọi là các “dấu”
đã giúp nhân loại có thể phiên viết mọi ngôn ngữ ra trên giấy, đó quả thật là
một điều kỳ diệu. Các nhà văn tự học Trung Quốc cũng có thể thấy được đặc điểm
“khải thư” của chữ cái La tinh viết in mà cũng thấy được đặc điểm “hành thư”
hoặc “thảo thư” của chữ cái La tinh trong viết thường. Cả hai đặc điểm đó đều
tiện cho in ấn và viết tay.
Chữ cái La
tinh theo chân các giáo sĩ người Bồ Đào Nha lần đầu tiên đến Trung Hoa qua ngõ
Ma Cao vào những thập niên cuối thế kỷ XVI. Các giáo sỹ người Bồ dùng chữ cái
La tinh chú âm cho chữ Hán, biên soạn cho mình từ điển phiên âm chữ Hán. Công
việc của họ lúc đó dường như chưa bộc lộ một tham vọng to lớn gì về tôn giáo,
trên thực tế việc phiên âm của các giáo sỹ cũng chỉ là để phục vụ cho việc học
chữ Hán của họ. Nhiều giáo sĩ đã có thể đọc được tứ thư ngũ kinh. Hai thế kỷ
sau, các đế quốc lớn như Anh và Pháp đem tàu đồng và đại bác cập vào các cảng
suốt một giải từ Quảng Châu lên Thượng Hải. Các giáo sỹ phương Tây ồ ạt xâm
nhập Trung Hoa Đại Lục. Công cuộc truyền bá văn tự mới được tổ chức quy mô và Kinh
Thánh đã có bản dịch chữ Hán. Thế nhưng chữ cái La tinh vẫn không thắng thế
được chữ Hán.
Vậy mà
trong hơn nửa thế kỷ từ Thanh mạt rồi Trung Hoa Dân Quốc đến Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa, từ Đài Loan qua Đại Lục, người Trung Quốc không ngừng thử dùng
qua rất nhiều phương án phiên âm chữ Hán. Đó đã là chuyện quan trọng của việc
“trị quốc bình thiên hạ” trong thời đại toàn cầu hoá của người Trung Quốc rồi.
Từ cuộc
vận động thiết âm tự thời Thanh mạt (tổng kết vào năm 1913, công bố bộ
“chú âm tự mẫu” vào năm 1918, thay thế cho phương pháp phiên thiết cổ xưa dùng
hai chữ Hán này chú âm cách đọc một chữ Hán kia). Thế nhưng bộ “chú âm tự mẫu”
có tính cách như là một bộ “chữ cái” riêng của Trung Quốc dùng để ghi âm
chữ Hán đó không thể dùng trong công việc đối ngoại được. Viết một cái danh
thiếp khi giao tiếp với người nước ngoài cũng thành vấn đề đối với người Trung
Quốc. Mười năm sau - 1928, chính phủ Nam Kinh phải công bố bản chữ La tinh
phiên âm chữ Hán gọi là “Quốc ngữ La Mã tự”. Đến 1953 Trung Quốc đại lục kế
thừa và đổi mới “Quốc ngữ La Mã tự”, chế định “Phương án phiên âm Hán ngữ”[2]
(chính thức công bố năm 1958). Đài Loan từ năm 2001 đã bắt đầu tính chuyện theo
dùng cách phiên âm của Đại lục. Việc cải cách văn tự đó của Trung Quốc đại lục
được bắt đầu ngay từ đầu 1950 (một năm sau lập quốc) do đích thân Mao Trạch
Đông và Chu Ân Lai trực tiếp lãnh đạo. Chu Ân Lai nói rõ trong báo cáo Nhiệm
vụ cải cách văn tự hiện nay (10/1/1958): “Phương án phiên âm Hán ngữ
không phải là dùng văn tự phiên âm thay thế chữ Hán……Chúng ta chọn dùng chữ cái
La tinh có điều chỉnh, nhằm thích ứng với yêu cầu của Hán ngữ. Khi đó chữ cái
La tinh đã thành chữ phiên âm Hán ngữ của ta, chứ không còn là chữ cái của
tiếng La tinh cổ nữa, càng không phải là chữ cái của bất kì một quốc gia nào.
Chữ cái là công cụ để phiên âm ghi viết cho ngữ âm, chúng ta dùng nó phục vụ
cho chính mình, giống như việc chúng ta dùng tàu hoả, thuyền máy, ô tô, máy bay
vậy, cũng giống như việc chúng ta dùng chữ số Ả rập để tính toán, dùng công
lịch để tính năm, dùng cây số để đo khoảng cách, dùng cân ki lô để cân đong
vậy.” Mấy lời giản dị giải thích cùng quốc dân về việc phiên âm La tinh “quốc
tự” của vị thủ tướng cũng ẩn chứa những ý vị nhất định của thời đại.
Đương
nhiên thực tiễn lịch sử - xã hội - văn hoá của Hán ngữ khác biệt với thực tiễn
Việt ngữ trên nhiều phương diện. Vì vậy công cuộc phiên âm bằng chữ cái La tinh
của Trung Quốc chỉ là một bộ phận của sự nghiệp cải cách ngữ văn bao gồm các
khâu liên quan nhau: dùng bạch thoại thay cho văn ngôn, dùng chữ cái phiên âm
La tinh thay thế hay bổ trợ cho chữ Hán, quảng bá cái gọi là tiếng phổ thông.
Chỉ đến thập niên những năm 60 thế kỷ XX, Trung Quốc mới cơ bản hoàn thành sự
nghiệp cải cách ngữ văn đó.[3]
Kết quả là riêng về việc dùng chữ cái La tinh để phiên âm, Trung Quốc đại lục
đã công bố Phương án phiên âm Hán ngữ. Cái khuyết điểm chỉ có thể bút
đàm, siêu phương ngôn, dễ viết lộn của chữ Hán (tức việc chữ Hán không giữ liên
hệ ngữ âm cố định với thực tế ngôn ngữ) - những cái bị xem là bệnh tiên thiên
của Hán tự được phát huy theo chiều tích cực khi đã có phương án phiên âm bằng
chữ cái La tinh. Chữ La tinh rốt cuộc đã được dùng trong nhiệm vụ chú âm cho
chữ Hán. Vậy là kể từ lúc thư đồng văn thống nhất quốc gia thời đại Tần
Thuỷ Hoàng hai nghìn hai trăm năm trước cho đến thời đại Mao Trạch Đông thế kỷ
XX Trung Quốc đã tiến đến chỗ ngữ đồng âm do chỗ dùng phiên âm bằng chữ
cái La tinh để quảng bá cái gọi là tiếng phổ thông - một thứ cộng đồng ngữ[4]
cần thiết cho vận hành quốc gia hành chính nhất thống.
Phiên âm
La tinh đã giữ vai trò không thể thay thế trong công tác từ tự điển, mục lục
học, tra cứu của thư viện, quy phạm hoá phiên âm tên người tên đất, dẫn nhập
máy vi tính và mạng internet tại Trung Quốc trong quá khứ cũng như hiện
tại. Ngay từ 1950, Tân Hoa tự điển là tự điển đầu tiên dùng chữ
cái phiên âm để chú âm Hán tự, cuốn tự điển hơn 650 trang in kiểu bỏ túi đó
trên thực tế đã phát huy tác dụng thống nhất âm đọc chữ Hán trong toàn cõi nước
Trung Hoa mới. Cuốn đó cùng với cái gọi là chính tự pháp trong phiên âm
của Trung Quốc làm ta liên hệ đến vấn đề chính tả trong tiếng Việt của ta. Ngay
mùa thu 1958, học sinh tiểu học Trung Quốc đại lục đã bắt đầu việc học tiếng
Hán qua phiên âm bằng chữ cái La tinh. Trên thực tế nhờ có phiên âm La tinh mà
Trung Quốc đã tạo ra văn tự cho hầu hết các ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong
nước, kết thúc thời đại có tiếng nói mà không có chữ viết cho các tộc người đó.
Cho đến 1982, Phương án phiên âm Hán ngữ đã trở thành tiêu chuẩn quốc tế
ISO 7098. Hội nghị về việc chuẩn hoá cách ghi địa danh của Liên hiệp quốc cũng
đã chấp nhận phương án phiên âm Hán ngữ trong phiên viết địa danh Trung Quốc.
Cũng như chữ Quốc ngữ ở ta, phiên âm La tinh Hán ngữ tại Trung Quốc đem lại
thành công phi thường cho công tác xoá nạn mù chữ (literacy).[5]
Chỉ có điều phiên âm La tinh đối với họ không thay thế cho chữ viết, Hán tự với
vấn đề đồng âm dị tự, đồng tự dị âm kèm theo chuyện cấu tạo chữ đã khiến cho
việc xoá nạn mù chữ đi đôi với xoá nạn mù nghĩa. Khi mà trong tiếng Việt có một
lượng lớn từ Hán Việt và tiếng Việt thì không biến đổi hình thái từ như ngôn
ngữ châu Âu thì phiên âm quốc ngữ chẳng nhẽ không có áp lực gì trong vấn đề tạm
gọi là mù nghĩa? Biết đọc biết viết là ngưỡng khởi đầu mà chính tả và năng lực
ngữ văn là cả một chặng đường dài. Nhật Bản và Hàn Quốc nằm trong khu vực văn
hoá chữ Hán. Nhật Bản từ xưa đã sớm có phương pháp chú âm chữ Hán cho tiếng
Nhật. Sau cùng vào thời Duy Tân (1868), Nhật bản cũng đã chọn dùng chữ cái La
tinh. Vậy mà từ sau đệ nhị thế chiến, Nhật Bản vẫn quy định chọn dùng một lượng
chữ Hán nhất định (1945 chữ) trong văn hành chính. Kết quả như ta thấy trong
Nhật văn có xen lẫn một ít chữ Hán. Cả Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên đã dùng văn
tự biểu âm của họ (1446) nhưng Hàn Quốc không đoạn tuyệt với chữ Hán như CHDCND
Triều Tiên, vẫn còn 1800 chữ Hán được dùng ở Hàn Quốc. Trên thực tế cả chữ Hàn
dùng lẫn với chữ Hán tạo nên một thể văn tự hỗn hợp vừa biểu ý lại vừa biểu âm.
Đó đều là những trường hợp đáng để cho ta suy nghĩ.
Quy
luật phát triển của văn tự xét về mặt cách biểu đạt được khái quát thành từ
biểu hình đến biểu ý đến biểu âm. Việc ta dùng chữ quốc ngữ cho tiếng Việt
không ra ngoài quy luật đó. Ngay nay ta thường nói đến toàn cầu hoá. Trong thực
tế cũng đã diễn ra quá trình toàn cầu hoá chữ cái La tinh. Như ta thấy trên
Internet ngày nay, văn tự sử dụng chữ cái La tinh chiếm đến 99%. Những nước
không dùng chữ cái La tinh cũng cần thông qua Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế
(ISO) để thống nhất một tiêu chuẩn phiên âm La tinh tiện cho giao lưu văn hoá.
Quan tâm nhiều hơn đến chữ Việt cũng chính là để tham gia tích cực vào quá
trình toàn cầu hoá.
[1] Nguyễn Hiến Lê kể khá tường công cuộc cải cách văn tự đó của Thổ Nhĩ Kỳ
trong bài viết về nhà lãnh đạo vĩ đại của dân tộc Thổ Mustapha Kémal
(trong sách Gương chiến đấu, Nxb. VHTT). Ta cũng biết, theo guơng Thổ
Nhĩ Kỳ, một loạt các nước Trung Á trong khối Liên bang Xô Viết thậm chí đã dấy
lên phong trào La tinh hoá chữ viết cho ngôn ngữ dân tộc. Phong trào đó đã chấm
dứt dưới thời Stalin, khi lãnh tụ Liên Xô quyết định tiến hành Slavơ hoá.
[2] Có thể lấy một ví dụ để hình dung tình hình. Ta từng đọc thấy cách phiên
cũ tên thủ đô của Trung Quốc Peking, ngày nay quốc tế chấp nhận phương án
phiên âm Hán ngữ của đại lục đã phiên là BeiJing. Tuy thế ngay cả khi tất cả
mọi người Trung Quốc đại lục gọi Đại Học Thanh Hoa là Qinghua thì trên huy hiệu
trường này vẫn giữ lối phiên âm có từ trước 1949 - Tsinghua. Thực tế thì đến
nay người ta trong lúc viết Hong Kong thì vẫn cân nhắc xem còn nên phiên viết
Xiang Gang hay Xiang gang (Hương cảng). Trong lúc chúng ta đã có cách đọc âm
Hán Việt thì lối bê nguyên phiên âm La tinh của Hán ngữ trong trường hợp
chỉ tên người tên đất Trung Quốc vào trong tiếng Việt chắc là không ổn, nó gây
khó chịu đối với người đọc chả kém gì khi phải nghe cách đọc “ang áng”
phiên âm La tinh tên người tên đất Trung Quốc trên báo nói các kênh VTV hiện
nay.
[3] Có thể kể ra một trong những kết quả của việc phiên âm La tinh Hán ngữ đó
là kế thừa và phát huy di sản văn hoá cổ. Phiên âm La tinh đưa lại những tiện
ích quan trọng trong việc giảng dạy cổ đại Hán ngữ. Các truớc tác văn ngôn cũ
vẫn sống trong lòng Hán ngữ hiện đại, tồn tại song song bên cạnh các bản dịch
ra bạch thoại. Ta cũng đã dịch gần hết các trước tác của cha ông, Thế
nhưng phiên âm Quốc ngữ hoàn toàn mà không có bổ trợ thích đáng của một
chương trình ngữ văn Hán Nôm và từ Hán Việt làm cho ta có cảm giác các tác phẩm
văn học cổ của cha ông trở thành văn học nước ngoài ngay trước mắt học sinh
ngày nay.
[4] Lingua Franca, có nơi gọi ngôn ngữ thông
dụng, ví dụ tiếng Ả rập ở vùng Cận Đông, tiếng La tinh ở châu Âu
thời trung thế kỷ. Tiếng phổ thông (phổ thông thoại) là một ngôn ngữ
thông dụng giữa các dân tộc, các địa phương trong toàn nước Trung Quốc. Thực tế
thì ta chỉ có thể tiếp xúc với phổ thông thoại trong trường học, trên các
phương tiện truyền thông Trung Quốc. Đó chính là ngôn ngữ quốc gia của Trung
Quốc. Tiếng Việt có đầy đủ các từ Hán ngữ, tiếng Hán, tiếng
Trung, tiếng Tàu, Trung văn, tiếng Hoa, Hoa ngữ…
đủ để diễn tả những khác biệt tinh tế trong cái gọi là Chinese (hiểu
theo nghĩa noun uncountable; Chinese language là một cách giải thích chớ
không phải là một cách nói). Khác Đài Loan, Trung Quốc Đại Lục hiện nay không
thông dụng từ quốc ngữ. Việt Nam ta dường như cũng không dùng riêng
từ quốc ngữ (thường dùng liền trong cụm từ chữ quốc ngữ,
vần quốc ngữ), cái gọi là “quốc ngữ” của ta chính là tiếng Kinh (Việt).
Chúng tôi lạm nghĩ, ta không dùng riêng từ quốc ngữ thì cũng giống
như Trung Quốc không dùng từ quốc tự , chỉ dùng từ Hán
ngữ. Chúng ta đều hiểu chữ quốc ngữ là chữ phiên-ghi âm tiếng Việt, không
nên tự gọi là quốc tự. Tuy nhiên chúng tôi hoàn toàn tự nguyện chấp nhận
cách dùng từ chữ Việt.
[5] Ngay nay đã phải nói đến xoá nạn mù khoa học (numercy) và xoá nạn mù vi
tính (computeracy). Thế hệ chúng tôi vỡ lòng vần quốc ngữ với những câu O
tròn như quả trứng gà, Ô thì đội mũ, ơ là thêm râu …
(Trần-Văn Giáp, Hoàng- Xuân Hãn, Vũ-Hy Trác, Vần Quốc-ngữ). Về sau khi
học Hán ngữ , việc đầu tiên cũng là phiên âm ghép vần. Chúng tôi còn nhớ những
câu trong Bài hát phụ âm (Thanh mẫu ca) của học giả Chu Hữu Quang
viết sau khi Trung Quốc công bố Phương án phiên âm Hán ngữ. Ông “lẩy”
thơ Đường để dạy cách dùng các chữ cái La tinh phiên âm chữ Hán:
Xuân
nhật khởi mỗi tảo,
Thái
tang kinh đề điểu.
Phong
quá phốc tỵ hương,
Hoa
khai lạc, tri đa thiểu.
(Ngày
xuân mỗi sáng dậy, hái dâu làm chim giật mình kêu. Gió thổi qua hương thơm phả
vào mũi, hoa nở rồi rụng, không biết là bao nhiêu).
Trên đây chúng tôi dùng phiên âm Hán Việt. Từng chữ
Hán trong bài trên trong tiếng Hán hiện đại được đọc lần lượt với các phụ âm
đầu viết bằng chữ cái La tinh là ch, r, q, m, z, c, s, j, t, n, f, g, p, b, x,
h, k, l, zh, d, sh. Phần vần trong tiếng Hán được ông thể hiện bằng một bài
ca riêng.