Nguyễn Trường Tộ
NƯỚC NHÀ KHÔNG NÊN
KHINH SUẤT ĐIỀU NHỎ
Bẩm, tôi nghe: Triều
đình làm việc tươm tất đầy đủ. Lại nói “muôn điều mục đều trưng lên”. Nói “mục”
tức là chỉ điều nhỏ (như là lưới, “cương” là cái diềng, mục là từng khoảng
trong mặt lưới). Quan chánh đời Đường, Ngu nói đến thuật muông chim. Thầy Mạnh
Tử nói đến Vương đạo mà trù đến việc nuôi heo, gà; Quản Trọng làm tướng nước
Tề, có đặt nữ thương. Bính Cát tướng nhà Hán mà hỏi đến trâu, thỏ; Châu Lễ,
vườn nào không trồng cây thì bị phạt; Nhà Tần, ai bỏ tro ngoài đường thì bị
tội… Xem đó thì biết rằng làm việc quốc gia không nên khinh suất những việc
nhỏ.
Việc Trung Quốc kể
trên, còn là sơ lược. Đến như phương Tây thì càng tương tế hơn, như: tập lội có
trường, lấy phân có phép, đổ rác có xe, quét đường có phu; phàm việc thường
hành trong dân gian, không có việc gì là không đặt chức để coi sóc việc ấy.
Thành muôn việc đều theo thứ lớp tiến hành. Vì công việc dầu nhỏ mà khắp nơi
đều có, chứa lại thành việc lớn.
VIỆC NHỎ MÀ
CẦN THIẾT VỚI NHÂN SINH
Tạo hóa sinh vật từ
cái lớn không có bờ bến, cho đến cái nhỏ không nhìn thấy được trời vẫn sinh
thành và chiếu cố đến cả. Tức như các đảo san hô ngoài biển, hợp lại rộng đến
đôi ba ngàn dặm, có người và vật sống trên đảo ấy, mà nguyên chất đảo ấy là do
xác trùng san hô tý tý chất chứa keo dính lại mà thành. Trên mặt đất về tính
phì nhiêu ở trên, đều do cứt trùn cùng lá mục… chứa chất lâu đời, động trong
núi, do xác cá, xác trùng nhưng kết lại mà thành (nhà địa học đã xét nghiệm, đó
là việc thiệt, không phải nói lý), thành món đại hữu dụng cho đời (như xác
nghêu, hến, chế ra vôi cùng các vị thuốc kim thạch v.v…) đều từ những cái nhỏ
đó cả, mà lại có cơ màu nhiệm sinh hóa mãi mãi không đời nào dứt. Tuy là vật
nhỏ mà loài giống không tiêu diệt thành vật đại quan trên đời. Đấy là toàn đức
của trời của tạo vật…
Trong vật trời sinh,
loài người khác hơn muôn vật, vì biết học theo đạo trời. Nếu chỉ có tánh tri
giác vận động mà không có năng lực kinh dinh bố trí, thì sao gọi được là thiêng
hơn loài vật? Bởi vậy đã có loài người, đầu tóc không thể để bùm xùm như đống
cỏ, thì bịt khăn đội mũ: thân thể không lẽ để trần truồng, thì bận áo quần.
Không thể sống trần trụi giữa đất trống không, thì làm ra nhà cửa; không thể
ngồi nằm dưới đất được, thì sắm ra giường ghế; chân không đi trần được, thì sắm
ra giày dép… Phàm những vật dụng người đời sắp đặt ra để hưởng dụng, khác với
loài vật là tại chỗ ấy.
Nay nhân dân nước ta
tuy đã biết dùng những cơ xảo để giúp sức người. Cơ xảo xứ ta còn nhiều khuyết
điểm cái đó chưa nói, chỉ nói những điều nhỏ và dễ làm mà khuyết điểm còn chan
chan. Xin lược kể như dưới:
NHỮNG KHUYẾT
ĐIỂM VỀ VIỆC NHỎ (QUANH ĐÔ THÀNH HUẾ) CÓ THỂ CẢI CÁCH ĐƯỢC.
Kinh thành là một nơi
tụ hội cả thanh danh văn vật và oai nghi lễ phép từ đó mà ra. vậy mà trừ các
nơi cung phủ ra, có lắm điều thô lỗ quê mùa không sao nói xiết. Thánh như Khổng
Tử, từ cư xử, ăn uống, cử động, tới lui, việc nhỏ mọn ấy, học trò đều ghi chép
để làm gương cho đời sau. Vì xem người, xem điều nhỏ mà có thể biết được điều
lớn.
Nói riêng về một sự ở.
Nhà cách trí có nói: Người đời sinh bệnh nhưng bệnh đó từ lỗ mũi mà vào; những
nơi uế độc, nhân khí nặng nề mà chưng lên, lẫn trong không khí, theo gió bay ra
khắp nơi, nếu người nào hớp vào phổi thì khí độc ấy theo mạch máu mà đạt vào
phủ tạng và chi thể mà sinh ra bệnh tật, đến huyết trong thân người hư hỏng mà
chết. Đó là lý rất đích xác. Xem mùa nắng nhiều người cảm bệnh mà nhiễm bệnh ôn
dịch thì rõ.
Nay trong Kinh thành,
con đường lục bộ cho đến đường các nhà thự chợ quán tường hào, vườn hoa và các
bến sông chỗ nào cũng có uế khí, thậm chí có kẻ trước mặt công chúng mà đi tiểu
đại không biết xấu hổ; các cầu dọc theo sông, không luận ngày đêm đàn ông, đàn
bà cứ ra nơi ấy mà phóng uế, quen lấy làm thường. Người lo sửa mình đối với
bóng đèn nệm gối, còn lấy làm hổ thẹn, xây lưng với người gọi là vô lễ, trần
mình đối khách gọi là khinh mạn. Huống Kinh đô là nơi tôn nghiêm, trên các
đường quan quân qua lại, sĩ thứ tới lui mà còn để có những chuyện “bất nhã” như
trên sao? Ở phương Tây phàm những người nào bỏ rác làm nhơ đường đều bị phạt cả
vì việc ấy bất nhã mà có mối hại chung. Ta cũng là người như họ, lại không biết
xấu hổ sao?
Đến như gạch vỡ ngói
hư, cây nhành khô lá rụng đổ rác và tro than các nhà loại ra người nước khác
thu nhặt làm đồ vật hữu dụng, tăng tấn nguồn giàu nước… mà người mình thì vứt
ra cùng đường, ném xuống ao vũng, hoặc đổ ra ngoài hào quanh thành, chất đầy cả
bến sông, có nơi đến chất đống, người ta nhân đó có thể vượt hào sang bến được.
Tôi từng thấy nhà người ta cứ mang đồ ra tới nơi lan can các hào cửa thành mà
đổ xuống thường lắm.
Người Tây phàm đường
sông quanh thành và thông vào thành, nếu như có người nào bỏ vật gì xuống thì
bắt phạt là phòng lâu ngày đường sông ấy bị chất chứa mà thành cạn. Nay hào
sông quanh thành ta nước cạn không lút đầu gối, hai cảng Đông Ba, Bạch Hổ cát
bồi gần lấp bờ. Lúc đầu tiên đào những hào và sông ấy là đặt nơi hiểm yếu, mà
nay gần như đất bằng là vì sao? Hiện dọc hai bờ hào quanh thành bờ đã có những
nơi gần đổ sụp những vôi cát đã hủng hỉu, thấy người ta thường vịn theo nơi
hang bờ đá, ở dưới hào mà leo lên bờ, dưới hào lại cỏ tốt, sen lên dễ ẩn núp
được… Những điều đó đều phạm đến kiêng kỵ của nhà binh.
QUAN THỰ
Dinh thự các quan,
tường vách xiêu đổ; đến các quan giải, trống dưới dột trên, ngoài đường thì bùn
lầy, vườn tược thì rác bẩn; trước sân quan nha thì cỏ mọc; trước cửa dinh quan
nơi tụ ngõ mà đổ rác thành đống; ngoài hào thì nơi lồi nơi hủng, các nhà trong
thành, hai bên đường gần nhà cứ quét dọn ra giữa đường như chia giới hạn vậy.
Những đường bên vách tường đó, mùi hơi hôi thối, người đi qua phải che mũi đi
mau… Cửa thành gọi là “quốc môn” lại gọi là “tượng khuyết” đời xưa phàm có
truyền hiệu thì lệnh đều treo yết nơi cửa đô thành, người đi qua phải nghiêng
lọng, xuống ngựa để tỏ lòng tôn kính, mà nay lại công nhiên làm nhơ bẩn,
như thế thì lòng tu ố ở đâu. Không phải là tiết mạn hay sao? Sao gọi là người
nước biết giữ lễ nghĩa?
NHƠ BẨN CÓ
HẠI ĐƯỜNG VỆ SINH
Những mối tệ như trên
không sao kể xiết. Phàm những khí uế độc đều ở xứ này mà theo luồng gió lại bay
sang xứ khác; huống chi là ở trong một đô thành. Tuy có một vài quan thự dọn
dẹp sắp đặt cũng sạch sẽ chỉnh đốn; song nước gáo không thể cứu được lửa xe, cả
đời đều đục mà trong riêng một mình thành ra nhiều người sinh bệnh, quân
lính hay sinh lở chân… đã hại thân thể người và kém phần nhân đạo, như thế
không cho là việc nhỏ được.
VIỆC ĂN Ở
Các dinh quan như sáu
bộ đường, bốn phía thềm ủm thủm, chỗ lủng, chỗ sứt, trông nó so le, xiêu quẹo
như hình rắn đi. Trong nhà mò tối cửa vách đen ngòm, khói bay mờ mắt, giường
chõng mục rệu, cánh cửa lung gãy, có lẽ giống nhà ông Nguyễn Hiến thời xưa (1).
Đến đồ dùng trong nhà đều khí cụ thô vụng cũ rích đời nào, tưởng đâu các quan
ta có tính ham đồ xưa. Ván kê sát đất không thông khí gió, trải qua ba mươi,
bốn mươi năm loài rệp mối tụ họp thành ổ cắn người thành ghẻ, thán khí chất
chứa không tan, cảm xúc là sinh bệnh. Thường nhà người trong buồng sâu phòng
kín, không khí không thông, hễ một lần quét là thán khí bung ra, người vào đấy
phải nhức đầu nghẹt mũi. Đó là thực chứng; huống rắn rết chuột muỗi dùng những
nơi dưới hầm thắp buồng kín làm hang làm ổ truyền đời này sang đời kia, những
đồ nhơ bẩn chung quanh đều dồn chứa vào đấy, cái khí độc thật không nói hết!
Tôi thường thấy quan
viên ở dãy hai bên, và gia thuộc sai lính đi tìm thầy thuốc mà những quan và
gia thuộc đó trông hình vóc ốm yếu như người ở trong rừng sâu, trọn ngày làm
việc khó nhọc khí uất trí ngăn, thì làm sao cho mình được thanh sảng, chí khí
được khoẻ khoắn mà làm việc cho tinh tường được?
Thầy Mạnh Tử nói: “Sự
ở thay đổi được chí khí, sự nuôi thay đổi được thân thể”. Thật thế, người không
có ăn mặc thì đạo vua tôi cũng dứt. Đó là điều đích xác và nhân đạo. Tôi thấy
phần nhiều quan viên ăn uống sơ sài không bằng nhà trung sản trong dân gian. Họ
thì trả lời rằng không phải không biết đồ tư dưỡng nên phong hậu, chỉ khổ không
có tiền chu cấp nên phải thế… Chính dưới nhà bếp không mấy khi có thịt thừa,
cơm thừa. Đó là mắt tôi từng thấy mà không khi nào quên. Như thế là cố làm cái
giả dối để câu cái dạng sao?
Năm trước sứ bộ ta
sang Tây, người Tây thấy sự ăn uống của sứ bộ quá đơn giản, họ nói: “ăn uống
như thế mà có sức để bổ vào phần trí dũng thật không sao hiểu được”. Đến trước
mặt người nước ngoài mà không dám dọn bữa ăn cho sang không rõ là ý gì? Tôi rất
lấy làm đau lòng, nên không thể không nói, sợ làm trò cười cho người ngoài
không phải là việc không quan hệ.
Bộ đường là nơi nguồn
gốc chính trị, nền tảng cường thịnh trong nước, quan hệ đến phong hóa và quốc
thể, nhân dân chiêm ngưỡng, người nước ngoài trông vào sự ăn như đã thuật trên
không những không biểu thị khí tượng hùng tráng của nước nhà, mà ở trong không
khí ẩm thấp thì người càng mê mỏi, tâm trí còn có lúc nào khoẻ khoắn mà làm
việc gắng sức chịu nhọc với phận sự? Tôi ở nơi chái tây quan Hiệp biện đại thần
mà sinh bệnh lười biếng mệt nhọc, không có việc gì mà còn thế, huống chi các
đại nhân công việc nhiều thì sao?
Hiện nay có lệnh cấm
“người nước ngoài không được vào trong thành” vẫn là theo thời thế. Song ngày
sau cùng các nước giao thông mà bỏ lệ cấm trên, người nước ngoài vào thành bước
chân vào các bộ đường mà so sánh với cách cư xử của họ thật không khác gì một
trời một vực, nhục đến quốc thể biết bao! Mà đã nhục đến quốc thể tức là bày
chỗ hèn yếu cho thế giới cùng nhìn thấy, không xem như là việc nhỏ được.
KHOẢN TIÊU
DÙNG CỦA QUAN VIÊN
Về các khoản ăn dùng
chi tiêu của các quan viên không bằng sự tiêu dùng của một nhà khá giả trong
dân gian. Tôi hỏi vì sao, thì họ trả lời: “ăn tiêu như thế mà người ta gọi là
quá xa xỉ rồi đó”. Có viên hàm Hàn lâm trước tác, ra chợ mua một xâu cá một xấp
thuốc, mang về tự nấu lấy, hỏi thì họ nói: “Không có tiền thuê đứa nấu bếp”
(!).
Chức phận dầu nhỏ cũng
là quan của Triều đình, mà khổ nhục đến thế, thì dân bảo thế nào? (Đoạn này kể
nhiều đến điều mắt thấy vào thời ấy, như nhà quan chức lớn mà ăn uống thô hèn,
công tử mà bận áo rách v.v… xin lược).
Thường thấy nhiều vị
quan viên tiêu dùng một quan tiền như nhà buôn giàu xài một trăm quan…
Những cách hiểu đó,
chính là con ma nghèo đeo đuổi trìu mến mà không rời vậy. Sao không làm văn mà
trục nó đi? (Quan há bấy giờ không tiền mà lương ít thì lấy đâu mà xài? Tiên
sinh chỉ nói đến hiện tượng mà không xét đến nguyên nhân, nên lúc ấy dư luận
không phục).
Ở phương Tây một vị
quan nhà nước, nếu làm không đúng cái thể quan, mà có đê hèn đôi chút đã bị
cách chức vì đã làm vết xấu trên danh dự quan trọng. Cho đến hạng dân nghèo
không được đi đến nơi đô hội phồn hoa đều là để tôn trọng quốc thể vậy.
Còn như quan ta, nếu
bảo rằng che giấu sự giàu mà biểu thị cái nghèo ra, thì cũng vô lý hết sức. Vì
ăn dùng như vậy có người làm quan trọn đời mà cũng như vậy. Lại có ông quan
thăng trật cải lỵ mà dân dám dọn đường đòi nợ như đám dân nguyện lưu. Vậy để
tiền làm gì? Giả dối đến thế là cùng. Phải chăng để dành tiền đặng dùng vào lúc
mình chết? Tôi chính mắt thấy có ông quan già về hưu mà còn sống nhờ vay nợ,
phải chăng để dành tiền bạc di chúc cho con cháu trả nợ cho mình được sạch
tiếng chăng?
SAO GỌI LÀ
LIÊM?
Gọi rằng “liêm” vẫn
tiếng tốt, song tại lương tâm mình chứ không phải dùng vật. Nay có người giữ
theo tính riêng của mình khác với mọi người, như người xưa có anh say mê người
con gái một mắt, xem người đời đều thừa một con mắt, mà cho là người đời không
có người hoàn toàn; hay thấy người nào dùng một vật gì tốt mà xúm tay chỉ trỏ,
làm cho người kia mang tiếng này nọ. Lấy cái tính quyến giới trái thường của
mình mà đạc chừng sự tham mạo của kẻ khác xem người đời như ruồi hút máu, mà
đem cái nết con trùn để buộc vào tính người (loài giun ăn đất) để so sánh chỗ
mình khác người, đó há phải người bình tình nên làm sao?
Tôi thấy quan viên
phương Tây gặp có vị quan nào cùng túng thì bạn đồng nghiệp, đồng liêu quyên
giúp đặng mua đồ khí dụng tinh hoa, trần thiết cho có vẻ đẹp. Nhà nước đối với
quan viên ngoài bổng lộc, lại có tiền phụ cấp, cho xứng với chức quan và thể diện
quan. Vì một người có điều xấu hổ như lá đổ xuống nước nương rãnh và dạy quan
học thói tham vậy.
Nhà nước vẫn cầu cho
quan được giàu sang và ghét quan tham ô. Làm quan tham ô nhục đến thể diện, ăn
của đút lót, hình luật có phạt. Song có bổng dưỡng liêm mà sau tránh phạt kẻ
không liêm, mới mong tránh khỏi mối tệ nói trên. Nếu ngăn phòng sự tham ô mà
lại ghét tanh kẻ giàu sang, nào có khác gì nhân nghẹn mà bỏ ăn?
Vậy, trừ việc “hiếp
người trái phép mà lấy của” đáng bắt tội ra, ngoài ra, theo việc thông thường
mà làm nên giàu không hại cho ai mà dân được nhờ, cũng lại là đáng khoan, lại
giúp thêm việc thịnh lợi cho nước. Tức như thầy Mạnh Tử đã nói: “Trị người thì
được người nuôi”.
Vả chăng tài hóa cần
phải lưu thông, có tụ lại thì có tan ra, là lẽ tự nhiên, không lấy gì làm
phương hại, Tiên Triết có nói: “Quan tham mà có phần trung hậu, hại dân chưa
lắm. Quan liêm mà quá ư thâm khắc, dân chịu cái hại ngấm ngầm không ít, mà hao
tốn đến quốc mạch”. Vì đã cần cho được tiếng “liêm” thì việc gì cũng thẳng tay,
không chịu xét theo nhân tình. Đạo trời cũng thế, nên chỉ thi hành cái lệnh
“túc sái” mùa thu, tội gì cũng tuyệt trừ đi, thì người và vật có lẽ đến ngày
nay không còn.
Đời Đường, ông Hàn Dũ
làm việc tể tướng, thấy có ai bới lông tìm vết, chỉ vạch điều lỗi của kẻ khác,
ông bảo: “Trên đời, vua thánh như trời mùa xuân, sanh trưởng muôn vật; thứ tốt
loài xấu đều bao dung cả. Sao lại tìm móc điều lỗi nhỏ của kẻ khác để giam cầm
người ta giữa đời thịnh trị?”
Trương Tuấn, tôi đời
Tống, một ngày nọ bắt được một đảng nguỵ chở ba mươi vạn quan tiền, muốn kết án
tử hình. Triệu Khai xin lấy cái ấn “Tuyên vũ sứ” đóng lên trên số tiền ấy, kêu
tội “kềnh” (chạm chữ vào trán) bắt bọn chúng làm công việc đúc tiền… chỉ xoay
một cái đã được ba chục vạn tiền, lại thoát tội tử hình cho năm mươi người, đời
sau khen Triệu Khai là tay “đại thủ đoạn kinh tế”.
Tào Tham, danh tướng
đời Hán, uỷ thác cho người thay chức mình nói không nên làm rối chợ ngục. Quản
Trọng, danh tướng nước Tề nói Bảo Thúc Nha không thể làm chính trị vì thấy người
nào có lỗi thì trọn đời không quên (Không có độ lượng làm tướng quốc v.v…).
Trên, nói “liêm cũng
có hại” là vì thế. Bằng như nói kẻ giàu sang lại tham ô, thì sao không trị tội
một cách minh bạch công nhiên, mà chỉ lấy lời nói làm phòng hại người cùng cách
bóc buộc ăn ở để phòng hại đến quốc thể?
(Bài này cốt châm mối
tệ đời Tự Đức, nên cực lực bác cái đức “liêm” giả dối đó. Đời nay thì dầu người
liêm giả dối cũng đỡ cho dân).
KHÔNG DÙNG ĐỒ
TỐT ĐẸP KHÔNG PHẢI LÀ LIÊM
Âu Tây thì khác thế:
Không luận là quan hay dân, đều cần cho được giàu thịnh, vì quan dân trong nước
mà có được nhiều cái tốt đẹp, đều có quan hệ với quốc gia Triều đình. Nghiệm ở
Triều và ở thôn quê mà biết nhà vua tôn quý là thế nào. Vào một nhà nào mà thấy
bọn đầy tớ ăn mặc chỉnh tề, thì biết chủ nhà là giàu sang; làm con cái mà lập
được cơ nghiệp tốt đẹp, đó là lẽ đương nhiên. Nay ở nước ta lại cố ý làm cho
thô vụng xấu xa và có tục ngăn cấm sự ham đồ tốt đẹp, như có nhà nào dùng một
vài đồ ngoại quốc thì nghi là tư giao, ngấm ngầm kiếm cách để làm hại, cho đến
người đời lấy sự “tốt đẹp” là kỵ huý. Từ quan đến dân, đua nhau làm những nghề
tinh xảo ngày một tiêu mòn, dùng những đồ vụng rồi thể thống càng hèn, người
giàu cũng như người nghèo, kẻ sang cũng như kẻ hèn, có cái thế đáng ham muốn mà
không có sự đáng kính, không có cái vinh hoa phô với người. Văn vật ngày càng
suy, áo xiêm càng xấu, không có vẻ tốt đẹp. Như nói lấy lễ mà tiết chế kẻo sợ
người tập thói xa xỉ thì trên thế giới các nước đều lấy sự giàu mạnh mà khoe
với nhau là ngu dại cả hay sao?
Trời sinh ra những vật
tốt đẹp cho người sử dụng, mà nay lại ném bỏ đi, ấy là bạo khí của trời. Như
thế thì việc thông thương mại, khuyên trăm thợ, không cần nói đến, giàu nước đủ
dân cũng là sự đáng chê, lợi dụng hậu sinh, không có nghĩa gì, mà đặt ra trường
học và xưởng công nghệ, cũng là việc không cần tả. Đồ khí dụng tốt đẹp, tạo ra
mà không được dùng, lại kiêng sự dùng, khinh rẻ kẻ dùng, ai dùng lại bị chê
cười nữa, thì dùng đồ tốt đẹp đó trở thành làm như kẻ hiền đạt, nhục đến thân
danh, rước lấy điều ghen ghét lại bị dòm xét này nọ, thì có khác gì làm cái hầm
trong nước cho người nước xỉa chân vào hay sao?
Thánh nhân đời xưa
không quý chuộng vật lạ là những thứ vô ích vô dụng mà khêu lòng dâm đãng kia.
Nay như cái đồng hồ, cây đèn cùng cả đồ tinh xảo thường dùng trong nhà, cần
thiết với nhân sinh thì dùng lại càng tốt. Vậy mà tôi đã hỏi nhiều vị quan sao
không mua đồ ấy mà dùng cho tiện lợi, thì thảy cả đều trả lời: “chết! chết!”.
Không rõ có cái gì cảm hóa mà ngấm ngầm khiến cho người ta làm theo, như là
luật hình nghiêm khắc đối với giặc bí mật.
Theo thông tánh loài
người, ai cũng có tính ưa thích cái đẹp; nếu trái với cái tính ấy thì trăm việc
không việc gì nên, mà trái với tính trời đã phú cho người. Duy dùng có tiết độ,
vừa phải, ấy tức là lễ, chớ đâu phải buộc cả mỗi người đều trốn đời tu hành mới
gọi là “liêm” hay sao? Liêm như ông Trần Trọng Tử ở Ô Lăng (không ăn của anh, ở
riêng một mình) mà thấy Mạnh Tử mạt sát, Tề Oai Hậu cho là đem dân vào đường vô
dụng mà đòi giết đi.
TRỊ ĐỜI PHẢI
XÉT TÍNH NGƯỜI
Thánh nhân trị thiên
hạ, phàm việc gì bất cận nhân tình như kẻ trốn đời, tuy có kính trọng, mà không
thể đem khuôn kiểu ấy ra dạy người đời. Sáng mắt như Lý Lâu, thấy cây kim trong
buồng tối, nhưng cũng phải dùng thước, cân, lượng mà chuẩn, vì không lấy cái
“sáng” đó mà buộc cho người thường được.
Vua Hoàn Công nước Tề
háo sắc, mà Quản Trọng cho là không hại gì nghiệp bá. Vua Tuyên Vương nước Tề
háo hóa mà thầy Mạnh cho là nên suy ra thành vương chánh… Từ xưa những vị vua
anh hùng khai cơ dựng nghiệp, đều lấy sự “bảo trợ giàu sang, chung cùng lợi
lộc” thề với những truy tuỳ với mình. Nếu mỗi người đều thành như Bá Di, tín
như Hiếu Kỷ thì cùng ai mà tóm thâu thiên hạ làm nên nghiệp vương được? Và như các
vị công thần, bỏ nhà cửa, lìa bà con, trông ngày sau được phong tước hưởng lộc
đó, đều cho là hạng người bất trung và tham tâm cả sao? Như chỉ hứa bằng miệng
suông mà không có thực lợi giàu sang đi theo sau thì mục “cửu kinh” trong sách
Trung dung, có hai chữ “trọng lộc” cũng nên cạo bỏ đi cả.
Phải biết hai chữ
“danh lợi” cùng đi đôi với nhau. Nay đã gánh phần lo cho thiên hạ mà không được
hưởng niềm vui trong thiên hạ, thì ai còn khổ gì mà phải làm quan? Xưa vợ Trần
Trọng Tử can chồng nếu chịu lãnh tước lộc thì phải gánh việc nước, e có điều
nguy đến tánh mạng…, người đời cho là hiền, vì trọng tính mạng mà xem nhẹ tước
lộc. Nay đã bắt lo toan việc nước là việc nặng mà lại không được hưởng cái nhẹ
kia, thì làm sao mà bảo trọng được?
Đời xưa vua đãi với
tôi, như vua Nghiêu sắm đủ kho đụn để phụng vua Thuấn, vua Chiêu Công định
phong Thơ xã cho Khổng Tử, có phải là đem cái mồi giàu sang mà dụ người đâu?…
(lược) Đã là quốc gia phàm việc gì cũng gốc theo nhân tình và không tính trời
phú cho người, dầu thánh hiền cũng không khỏi. Nay lại mất cả người trong thiên
hạ mà làm cùng khốn quê hèn, không phải là trái với tính người sao? Như vậy thì
trông mong cho nhà nước giàu mạnh thịnh lợi để dùng làm việc gì mà lo toan cho
mệt nhọc?
VẬT CHẤT CÓ
QUAN HỆ VỚI TINH THẦN
Người xưa đến một nước
nào, vào trong nước mà trông thấy đô thành tráng lệ, lâu đài phố xá chỉnh tề
sạch sẽ, đô thị có ngăn nắp, nhà cửa có hàng ngũ, đồ mặc đồ dùng có vẻ chỉnh
sức, không khí trong sạch… thì biết là nước ấy có cái cảnh tượng hùng thịnh tấn
tới, trái lại nếu trông thấy nhân vật quê mùa hèn hạ, phong cảnh u sầu, ăn ở tệ
lậu, trông phong sắc có dạng buồn rầu cực khổ thì tương lai của cái vận nước ấy
không đợi nói mà ai cũng hiểu được; điều quan hệ đó, đâu phải là việc quan hệ
nhỏ (thuyết này rất đúng, không rõ triều Tự Đức có quan cảm thế nào?).
Nói riêng ở chỗ Kinh
thành đây, cái ao trong ngoài thành để cỏ mọc um tùm, chung quanh thì làm nơi
chứa những rác rến dơ bẩn chất thành từng đống, có nhiều hơi độc. Nhà cách trí
có nói: Phàm những nơi ẩm thấp đồ dơ bẩn của người và vật, chấm ngấm trong bùn
đất, đến mùa nắng khí độc xông lên, ngừơi ta gặp phải sinh tật bệnh cảm nhiễm
đến chết. Xem hôm nào trời động trên mặt nước có cái sắc khác với ngày thường,
đó là chứng thực rõ ràng. Bằng như nói sợ động đất không nên đụng chạm đến các
ao đó, thì trước kia đào những ao đó làm gì? Mà đã vô dụng thì lắp bằng đi, sao
lại để cao không cao, thấp không thấp, ao không phải ao, ruộng không thành
ruộng, làm những khoảng đất trống vô dụng làm mối hại lâu dài ngấm ngầm cho
người đời? Nay như nhận những cái cũ sẵn có đó mà chỉnh đốn cho thành mới, nuôi
cá phải phép thì mỗi ao trong một năm có thể lợi được hai ba ngàn quan tiền,
lại được những điều ích hơn là phong cảnh vui đẹp, có lợi dùng nước để tưới vào
hoa quả và tuyệt khí độc sinh bệnh hoạn. Như thế vì cớ gì mà không làm được?
Tôi lại thấy các nước
trên thế giới, phàm những dấu tích của các vị đế vương đời trước còn lưu lại,
bất kỳ thứ gì có mồ hôi tay và miệng của tiên triều, không luận cái lớn hay nhỏ,
đều bảo tồn một cách rất cẩn thận, cho đến lâu đài quan phủ cũ đều chăm sóc
chỉnh đốn cho mới thêm, khiến cho người sau trông thấy huân nghiệp hùng vĩ,
biết là cội gốc sâu xa mà sinh lòng yêu mến sùng bái cũng lâu dài. Điều quan hệ
không phải nhỏ, chỉ xét về mặt trái thì biết. Song đó là điều kỵ huý không dám
nói rõ.
ĐI XE VÀ ĐI
GIẦY
Xa chính (trong nước
dùng xe để đi và vận tải) có lẽ nước ta bỏ đã lâu mà không tu chỉnh lại. Trên
thế giới từ nước hạng nhất đến nước hạng ba không nước nào không lấy xa chính
làm việc trọng đại, vì giúp cho sức người rất nhiều công việc. Xưa nay trên sử
sách nói về xa chính đều có minh chứng không đợi nói nhiều.
Trời sinh vật để giúp
cho người dùng và thay sự khó nhọc cho người nữa, dùng trâu ngựa kéo xe chở đồ
nặng, trên đời thường dùng ít mà thu công nhiều. Nếu dùng sức một, hai người mà
mang gánh không phải phụ cái ý “trời sinh vật cho người dùng” hay sao? Đến xe
cộ dùng vào việc binh, công dụng rất lớn, không nói hết được. Đã có xa chánh
(có xe phải nuôi ngựa), mà nghề mục súc cần phải mở mang, không phải là việc
lớn trong quốc chính sao?
Tôi thấy những người
phu kéo xe và đẩy xe chở vật hạng trên đường cái quan, nếu có người nào quá
nhọc mệt mà ngồi lên trên xe thì kẻ hạch hỏi và bắt phạt tội, không rõ có điều
nghiêm cấm ấy không mà họ làm như thế? Nếu như nhận thứ xe làm đồ phẩm dụng
quan dụng thì phân biệt bằng quy chế để chỉ rõ từng đẳng cấp (xe quan dùng, xe
dân dùng, có dấu hiệu v.v…) không tiện sao? Sao lại không chỉ rõ đẳng cấp, mà
cứ để mù mờ để hẳn một việc dùng lớn trong nước? (trong dân không có xe). Có
tiện lợi cho việc dùng mà sau dân được phong hậu, tức là ích cho nước. Các nước
thế giới đều nhận việc xe cộ vận tải làm mối lợi giàu mạnh trong nước, quan hệ
cả công tư, không phải là việc nhỏ. Việc dùng thế nào không đợi nói nhiều.
Thứ giày là việc hèn
không đáng nói. Người sở dĩ khác với loài vật là biết ăn thịt nó, dùng da nó để
giữ thân mình cho tròn vẹn, cha mẹ sinh thế nào thì bảo tồn thế ấy, không làm
hại đến có vết tích, ấy gọi là hiếu. Nay người mình đem cái chân cha mẹ sinh
thành mà không từ gai góc, không tránh sạn sỏi, nhơ bẩn và trúng độc, cứ đạp
bừa mà đi. Vì thế người mình thường sinh bệnh lở chân, lở cẳng (ghẻ chùm bao và
dạn v.v…) nhiều hơn nước ngoài.
Trời sinh loài thú ban
cho nào nanh, nào móng, lại có da dày rất bền, gai không đâm thủng được. Nên
loài vật không cần đi giày cũng có đồ tự vệ. Đến loài người da chân rất mỏng,
có cái gì chạm là lủng, đã không có da dày như loài thú để giữ cái chân, lại
không dám mang giày, người không giống người, vật không giống vật, không phải
một điều khổ sao?
Các nước thế giới
không nước nào dùng thứ giày làm vật phẩm quan dụng (quan dân có tiền thì sắm
mà mang), vì nó là vật hèn. Như nước ta nhận lầm là vật phẩm dụng (dùng để phân
biệt với người có quan phẩm) thì trên đôi giầy mang một dấu hoa hay vẽ gì đó để
phân biệt quan dân cũng được, cần chi phải cấm thứ “giày” hèn đó, khiến cho dân
gian không ai dám đi giầy để cho người ngoài cười mình là dân dã man? Chưa nói
người mình cần giầy thì thêm được một nghề cho người có việc làm, đó là điều
ích. Chứ như không mang giầy mà chân bị thương thì toàn thân đều không dung.
Người xưa lúc ra trận bị đâm nhằm vật nhọn, bị té ngã mà toàn quân bị thua,
chứng rằng “giày”, vật tuy hèn mà công dùng rất lớn vậy.
(Dân gian đi giày
không có minh văn lệnh cấm đời nào. Song xem đời Nguyễn Trường Tộ tiên sinh thì
đời Tự Đức có lẽ theo tục lệ, quan thấy dân đi giày thì quở phạt. Hiện nay một
vài nơi phủ huyện học trò và dân đi giày, guốc có nơi bị quở trách, thì tục lễ
vẫn chưa dứt hẳn. Một điều lạ là phương Đông như nước tàu mà mắng người thường
dùng tiếng “lão không giầy” (Vô lũ chi lão). Còn người Nhật toàn đi guốc cả nên
có tiếng là nước guốc gỗ. Duy có nước ta dân gian không đi giầy, đến ngày nay
dân quê còn thế, đó là cái chứng nghèo chăng?)
Trời sinh loài người
khiến biết bao các vật dụng để phân biệt với loài vật, để toàn đạo làm người,
là vì lẽ gì? Nói nhường riêng một thứ giàu đó để quan dùng cho trọng sự tôn
kính, thì giày ở dưới chân vẫn là đồ khinh, còn áo mặc mới là trọng, sao không
cấm thứ trọng để quan được mặc áo, hưởng sự quan trọng đó? Mà bắt dân gian làm
“nước ở trần trụi” không được mặc áo, không cần trồng dâu để nuôi tằm, không dễ
dàng hơn sao?
Thánh nhân chế lễ, gồm
cả việc nghi văn để bày tỏ là có lễ có văn mới gọi là lễ; nếu như trần
vai truồng mình thì gọi là khinh mạn. Nay ở trường ca xướng hát bội thì bọn hát
được đội mũ đi giày, thì ra lấy trường hát bội làm trọng, mà khinh rẻ nhà công
đường sao? Tôi không rõ từ đâu mà sinh ra cái tục đó, rất trái với bản ý lễ của
thánh nhân.
MỘT VÀI TỤC XẤU CỦA
PHỤ NỮ
Đến như phụ nữ ta, lại
có lắm điều vô lễ; tôi thấy trên thế giới người đàn bà đã 50 tuổi mà không khi
nào lộ nửa thân thể ở trần bao giờ. Tuy dân Mã Lai là dân bậc chót, đàn ông nửa
mình trên đều ở trần, mà con gái thì bận kín. Đến người nước Tiểu Tây (Thổ Nhĩ
Kỳ) thì con gái, đàn bà chỉ để lộ hai con mắt, mặt mũi đều che kín cả. Người ta
làm thế là để phòng nhàn sự phi lễ.
Nay đàn bà xứ ta,
thường thấy nửa thân trên ở trần (ở Kinh thành cũng có thế) mà trước mặt công
chúng đông người xắn quần đến trên đầu gối, như đàn ông bận khố, trông như vị
hòa thượng không mang một sợi tơ… Đời xưa nói “mẹ chín con” nay hẳn thấy thế,
quê xấu biết bao! Sao không biết hổ đến thế. (Đoạn này nói ở trần đi tắm và
giỡn cợt nhau.. Xin lược).
CHỬI RỦA
Đến trong ngôn ngữ
giao tế với nhau lại lắm điều không thể đặt tên được:
Nước ta những nơi
thành phố chợ búa không luận đàn bà trẻ con ngu dốt không biết gì đến người có
học có biết chữ mà quở miệng là nói tiếng mắng chửi và lời thô bỉ nói luôn đầu
môi. Tập thành thói quen, những tiếng “mắng cha chửi mẹ” cùng tục tĩu, người
nghe đến nhơ cả lỗ tai mà tự người nói lại lấy làm khoái, cho đến dạy câu mắng,
học bài chửi, đọc ra có cung, có điều, nếu như người nào mắng chửi cả ngày mà
không trùng lặp, thì người ta xẽ như Tô Tần, Trương Nghi trong khoa mắng chửi,
chiếm giải quán quân vì miệng chửi như nước chảy không khi nào cạn vậy.
Đến lúc diễn ra cái bộ
dạng mắng chửi, tiếng như mõ rao, chân như múa hát, lên tay, xuống ngón, mặt
như sơn đổ, tóc như tơ vò, nước miếng như bọt giải, tay cầm đất lia, chân đi cà
xiểng không khác gì người điên… Những thói xấu đó thất là ba phần giống người
bảy phần giống ma quỷ. Trước đây lúc người Tây mới đến Gia Định (Nam kỳ) một
lấn thấy hai người Nam đang mắng chửi nhau, lên tay xuống ngón, múa men v.v… họ
xúm lại xem cho người Nam làm trò. Sau họ biết rõ hễ thấy đám mắng chửi nhau,
thì dùng “ba toong” giải tán ngay.
Lại còn một điều xấu
nữa, hễ có điều bất bình với ai thì phát thệ và nguyện rủa chúc dữ rất nặng.
Thường ngày cùng giao du với nhau mà đến ghét bỏ nhau, chất chứa điều bất bình
lâu thì khi yêu nhân đó mà sinh ra. Như cho là vô hại thì trong luật có điều
“cấm nguyền rủa” làm già? Đời Hán, Giả Nghị lấy gương nhà Tần làm răn, không
phải là vô cớ. Vì đối với đồng bạn mà nguyên rủa thì minh bạch, thì đối
với người trên, há không nguyền rủa âm thầm hay sao.
(Có dẫn vài chuyện
“rủa” làm chứng, xin lược)
“Không nến nói điều
phi lễ” thánh nhân có dạy: “Mắng chửi bị án xuy mười roi”, luật có điều ấy rõ
ràng. Nay thói ấy đầy cả thành thị mà cứ để như vậy thì còn dùng sách và vật
làm gì? Việc nhỏ như thế mà không làm lấy lễ phép chỉnh đề sửa đổi lại, huống
chi việc lơn. Ngoài ra như “đầy miệng điều láo, một ngày bán được ba gánh giả,
đến đâu cũng dối, ba ngày không mua được một điều thiệt”. Thật là không còn
chút lễ nghĩa liêm sỉ nào. Cái phong tục khiêu bạc đến thế là cùng? Thế giới
chưa có nước nào như xứ mình. Phép nước mà không làm cho người nước đổi ngoài
mặt thì còn nói đến chuyện hóa thành tục mỹ được?
Trên mấy khoản là tựa
chỗ gần mà thường thấy, nên chỉ trật tự như thế mà không nói đến phương cải
cách. Vì việc cải cách đó rất dễ…
Chú thích
(*) Bản dịch của
X.T.T đăng trong TIẾNG ĐÀN từ tháng 1-1940. Không thấy bản Hán văn ở đâu cả.
(1) Nguyễn Hiến:
Bậc cao đệ của Khổng Tử có cảnh nhà trên dột, duới thì ướt.