Trần Bình
Nam
Một sự kiện nổi bật gần đây là vụ tranh chấp chủ quyền
quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc nói của Trung Quốc. Việt Nam im lặng mãi cho đến
ngày 25 tháng 11 vừa qua thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới chính thức tuyên
bố trước quốc hội Hoàng Sa là của Việt Nam.
Phía Việt Nam, nhất là các sĩ quan Hải quân Việt Nam
Cộng Hòa đã mất nhiều bút mực viết về trận đánh bảo vệ Hoàng sa ngày
19/1/1974, như các tài liệu của Trung Tá Trần Đổ Cẩm, Trung tá Vũ Hữu San, một
bài viết của Đại Tá Hà Văn Ngạc, người chỉ huy trận bảo vệ Hoàng Sa, và nhiều
tài liệu khác. Trong tất cả các tài liệu đó tài liệu đầy đủ nhất là cuốn “Hải
Chiến Hoàng Sa” do Ủy ban Nghiên cứu Trận Hải chiến Hoàng Sa
soạn thảo và phát hành tháng 4 năm 2010.
Mới đây một tài liệu bằng tiếng Hoa nói về trận
chiến Hoàng Sa đăng trên mạng canglang.com ngày 7/11/2011
do Quốc Trung dịch đăng tải trên blog Basam News ngày 13/12/2011 và mạng
chuyenhoavietnam.com chuyển tiếp. Mạng canglang.com không chính
thức thuộc chính phủ Trung Quốc, nhưng các tài liệu nếu được đăng tải đều có sự
chấp thuận mặc nhiên của chính quyền Trung Quốc.Trong bài viết sau tôi gọi tài
liệu này là Tài liệu Trung Quốc, hay gọi là tài liệu và ghi tắt
TLTQ hay TL nếu không thể hiểu nhầm. TLTQ gọi Hoàng Sa là Tây Sa, Trường
Sa là Nam Sa, Việt Nam Cộng Hòa là Nam Việt.
Nhiều chi tiết trong TL đã được các tài liệu về phía
quốc gia công bố.
Trước hết bản đồ dàn trận Hoàng Sa của TL rất giống
tài liệu của Hải Quân Trung Tá Trần Đỗ Cẩm phổ biến tháng 3/2006 (Xem hai bản
đồ sau):
Thứ hai trong Chương II nói về “Bối cảnh quốc tế” TLTQ
viết: “Trận phản kích tự vệ Tây Sa tuy là một trận chiến quy mô nhỏ, nhưng
bối cảnh của nó lại rộng lớn, phức tạp. Liên quan đến chiến lược toàn cầu của 3
nước lớn Trung Quốc, Mỹ và Liên Xô khi ấy còn có cả Việt Nam và khu vực Đài
Loan. Muốn nói về trận phản kích tự vệ Tây Sa, còn phải được bắt đầu bằng việc
Nixon đến thăm Trung Quốc mở cửa cho quan hệ Trung-Mỹ.
Vào đầu thập niên 70, mối quan hệ Trung-Xô xấu đi
nhanh chóng, Liên Xô cho bố trí hàng trăm vạn quân ở biên giới phía bắc Trung
Quốc. Đặc biệt là sau trận phản kích tự vệ ở đảo Trân Bảo vào năm 1969, trung
Quốc đã phải chịu sự uy hiếp chiến tranh to lớn từ Liên Xô. Mỹ và Liên Xô trong
cuộc đối đầu chiến tranh lạnh cũng trở nên hết sức bị động. Vào cuối thập niên
60, lực lượng chiến lược Liên Xô có xu hướng hòa hoãn với Mỹ, nước Mỹ khi phải
đối mặt với sự uy hiếp chiến lược của Liên Xô đang leo thang nghiêm trọng, đã
yêu cầu được liên hợp với Trung Quốc để cùng nhau áp chế Liên Xô. Đồng thời,
chính phủ Mỹ vội vã rút quân khỏi Việt Nam, cũng yêu cầu có sự phối hợp chiến
lược của Trung Quốc. Chính trong tình hình ấy, Mao Trạch Đông và Nixon, xuất
phát từ con mắt chiến lược sâu rộng, đã mở cửa cho mối quan hệ Trung-Mỹ.
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, rất nhiều hòn đảo
của Tây Sa đã bị Nam Việt chiếm giữ dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, chứ không phải
Bắc Việt. Những hòn đảo này của Tây Sa sẽ bị Bắc Việt chiếm giữ khi nước Mỹ
muốn rút quân, và giao Tây Sa cho Bắc Việt thì chẳng khác nào giao cho
Liên Xô. Chuyện này có một dẫn chứng quan trọng: Căn cứ quân sự trọng yếu của
quân Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam là vịnh Cam Ranh, sau Chiến tranh Việt Nam, Liên
Xô nhanh chóng thuê lại vịnh Cam Ranh làm căn cứ quân sự cho họ (cho đến năm
2004 hết hạn). Cho nên, chúng ta có thể phân tích thế này, về vấn đề Trung Quốc
thu hồi Tây Sa, Đệ thất Hạm đội hải quân Mỹ đã từ chối lời yêu cầu (của Việt
Nam Cộng Hòa) xin hải quân Mỹ can thiệp, thậm chí còn từ chối cả việc đưa tàu
tới ứng cứu những người bị chết đuối.”
Sự phân tích và tiết lộ rằng có sự can thiệp của Hoa
Kỳ trong trận đánh Hoàng Sa cũng không phải là điều mới mẻ. Cá nhân tôi (Trần
Bình Nam) trong quá trình nghiên cứu về trận đánh và rộng hơn là cuộc tranh
chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc đã nêu vấn đề này lần đầu tiên vào
tháng 8 năm 1994. Trong bài viết nhan đề “Đảng Cộng Sản Việt Nam phải
làm gì để làm sống lại tinh thần Hội nghị Diên Hồng nếu Trung Quốc đánh
chiếm Trường Sa” tôi viết: “Tháng 1/1974 trong một hành động chận
trước ảnh hưởng của Liên bang Xô viết, Trung Quốc đánh chiếm đảo Hoàng Sa tức
đảo Paracels của Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc tấn công này một phần nằm trong chiến
lược của Hoa Kỳ nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của khối Xô viết về cả hai mặt chiến
lược và tài nguyên kinh tế khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ” (Tuyển Tập Bình
Luận Chính Trị 1991-1994 trang 103, Mõ Làng Xuất Bản)
Mười năm sau tôi nêu lại vấn đề này với nhiều chi tiết
trong bài viết “Biển Đông Dậy Sóng” đăng tải trong trang nhà www.tranbinhnam.com
ngày 10/1/2004 (Biển Đông Dậy Sóng). Tôi viết:
“Vào cuối năm 1967 Hoa Kỳ có nửa triệu quân chiến
đấu tại Việt Nam. Sau trận đánh Mậu Thân 1968 Hoa Kỳ bắt đầu thương thuyết với
Hà nội, và đến năm 1973 ký Hiệp định Paris chuẩn bị rút quân ra khỏi Việt
Nam.Trên nguyên tắc Hiệp định duy trì hai miền Nam Bắc và sẽ giải quyết việc
thống nhất đất nước trong hòa bình. Nhưng đối với giới lãnh đạo cao cấp của Hoa
Kỳ thì sau Hiệp định Paris miền Nam Việt Nam trước sau cũng sẽ mất vào tay cộng
sản bằng chính trị hay bằng quân sự (nếu TT Nixon không bị khó khăn vì vụ
Watergate thì mất bằng chính trị. Và nếu bị trói tay phải từ chức thì mất bằng
quân sự).
Cho nên trước khi rút lui, Hoa Kỳ phải tìm một thế địa
lý chính trị tại Á châu ít thiệt thòi cho mình nhất. Phía bắc Thái Bình Dương
Hoa Kỳ vừa khai thông quan hệ với Trung Quốc qua việc thiết lập văn phòng liên
lạc tại Bắc Kinh (1973) và Hoa Kỳ còn quân đội đóng ở Nhật Bản và Nam Hàn.
Nhưng ở nam Thái Bình Dương thì vấn nạn của Hoa Kỳ là: sau khi Bắc Việt chiếm
Nam Việt Nam thì Nga Xô – đồng minh của Bắc Việt – sẽ có mặt tại biển Đông. Hoa
Kỳ cần tìm một đồng minh choán chỗ trước.
Nơi biển Đông, Việt Nam Cộng Hòa có chủ quyền trên hai
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trường Sa ở phía nam gồm nhiều đảo nhỏ. Trong
khi quần đảo Hoàng Sa (gọi là quần đảo Paracels) nằm ở phía bắc có ít đảo hơn
nhưng có nhiều hòn đảo lớn có khả năng xây cất phi trường (đảo Hoàng Sa là một
trong những đảo lớn này). Đối với Hoa Kỳ nếu Nga Xô có quyền xử dụng quần đảo
Paracels sau khi Hà nội chiếm Nam Việt Nam thì thế của Hoa Kỳ tại nam Thái Bình
Dương sẽ yếu đi, nhất là sự phòng thủ Úc châu. Ngược lại nếu Trung Quốc nắm chủ
quyền quần đảo Paracels thì Hoa Kỳ yên tâm hơn. Trung Quốc vốn tranh chấp ảnh
hưởng với Nga Xô và kèn cựa với Bắc Việt sẽ làm người lính phòng thủ tốt chận
ảnh hưởng của Nga Xô xuống vùng nam Thái Bình Dương giúp cho Hoa Kỳ.
Đó là nguyên nhân của cuộc tấn chiếm quần đảo Paracels
của hải quân Trung Quốc đưa đến trận hải chiến ngày 19 tháng 1 năm 1974 giữa
hải quân Trung Quốc và hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Trận hải chiến này đã được
Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc, người chỉ huy trận đánh bảo vệ quần đảo Paracels
thuật lại với nhiều chi tiết trong bài viết “Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa”
trước khi ông qua đời tại Texas (đăng lần đầu tiên trên Tạp Chí Đi Tới số 21
phát hành tại Montréal, Canada tháng 5/1999, và được đăng lại trong số Xuân
Giáp Thân 2004). Đại tá Ngạc biết có một cái gì đó sau lưng trận đánh nên ông
đã dè dặt trong đôi lời trước khi viết rằng ông chỉ “tường thuật trung thực
những chi tiết theo khía cạnh của một người chỉ huy chiến thuật”.
Cái gì sau lưng đó là chuyến công du Trung Quốc ngày
10 tháng 11 năm 1973 của ông Henry Kissinger, lúc đó là bộ trưởng ngoại giao
Hoa Kỳ. Nội dung của chuyến công du như ông Henry Kissinger ghi lại trong cuốn
hồi ký chính trị “Years of Upheaval” (Những Năm Tháng Biến Động) là thảo luận
tình hình thế giới với thủ tướng Chu Ân Lai và chủ tịch Mao Trạch Đông và hai
bên quan tâm nhất đến sự bành trướng thế lực của Nga Xô. Ngoại trưởng Kissinger
viết, trong một cuộc thảo luận giữa ông với hai ông Chu và Mao, Mao đồng ý với
nhận định của ông Chu rằng, Nga xô là mối đe dọa lớn nhất của Trung Quốc [Mao
went along cheerfully with Zhou’ s implications that the Soviets were now the
principal threat... (Years of Upheaval, trang 689) ]. Trước đó trong một đoạn
tóm tắt mục đích và kết quả của chuyến công du, Kissinger viết rằng quan tâm
chung của ông và ông Chu là tình hình thế giới. Ông cho biết báo chí quốc tế
tường thuật chuyến công du của ông tại Trung Quốc không thuận buồm xuôi gió vì
vấn đề Đài Loan, nhưng thực ra đây là chuyến đi thành công nhất của ông. Hoa Kỳ
và Trung Quốc đã đạt đến một cái nhìn chung làm cho hai nước thắt chặt mối thân
hữu, và vì những lý do tế nhị đối với Nga Xô không thể tiết lộ được.[Following
the now well-established practice the heart of the visit was a detailed review
of the international situation by Zhou and me, together with our senior
associates... Our ties were cemented not by formal agreements but by a common
assessment of the international situation... Most of our conversations, as
usual, traced our shared analysis of the world situation, though for equally
obvious reason of Soviet sensitivities we could not announce that fact either
(Years of Upheaval, trang 684)]. Qua những dòng chữ trên, có lẽ có một thỏa
thuận giữa Mao, Chu và Kissinger để Trung Quốc chiếm quần đảo Paracels của Việt
Nam Cộng Hòa.
Các sự việc diễn ra sau đó giải thích giả thuyết này.
Một tháng sau khi ông Kissinger rời Bắc Kinh, hải quân Trung Quốc lén lút đổ
quân lên chiếm một số đảo trong quần đảo Paracels. Và trong trận đụng độ giữa
hải quân Trung Quốc và hải quân Việt Nam Cộng Hòa ngày 19/1/1974 hạm đội 7 của
Hoa Kỳ đứng né ra ngoài. Hạm đội Hoa Kỳ tránh cả việc cứu vớt thủy thủ Việt Nam
bị trôi dạt trên biển để cho Trung Cộng bắt, mặc dù có lời yêu cầu chính thức
của Việt Nam Cộng Hòa. Hải quân Trung Quốc sau khi đánh bại hạm đội Việt Nam
Cộng Hòa đã không truy kích để cho hạm đội nhiều thương tích này an toàn trở về
căn cứ Đà Nẵng (xem bài Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa của đại tá Hà Văn
Ngạc). Nhưng Hoa Kỳ đã can thiệp để các thủy thủ và quân nhân bị bắt được đối
đãi tử tế và trả về trong một thời gian ngắn. Riêng ông Gerald Kosh nhân viên
tình báo Hoa Kỳ tháp tùng quan sát bị bắt cũng được trả tự do trong vòng một
tháng. Bài viết của đại tá Hà Văn Ngạc ghi nhận rằng, trong thời gian trước khi
hai bên nổ súng Trung Quốc hết sức hòa hoãn. Có lẽ Trung Quốc nghĩ rằng Hoa Kỳ
sẽ thuyết phục được Việt Nam Cộng Hòa bỏ quần đảo Paracels. Khi hải quân Việt
Nam đổ bộ lên tái chiếm các hòn đảo nhỏ chung quanh đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc
đã chiếm mấy tuần trước đó, họ đã bỏ đi, không chống cự. Nhưng sau khi biết Hoa
Kỳ không thuyết phục được tổng thống Thiệu bỏ Paracels, Trung Quốc dùng sức
mạnh.
Nhưng các chuyển biến trên thế giới chệch ra ngoài dự
tính chiến lược của Hoa Kỳ. Mười lăm năm sau (năm 1989) Liên bang Xô viết sụp
đổ, Trung Quốc không cần phải liên minh với Hoa Kỳ để chống Nga Xô nữa. Mặt
khác vấn đề Đài Loan làm cho quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc căng thẳng, căn cứ
Paracels của Trung Quốc trở thành một cái gai trước mắt của Hoa Kỳ.”
Ngoài ra trong TLTQ có hai điểm khác đáng để ý:
Thứ nhất. TL viết: “Trận phản kích tự vệ Tây Sa
không hề được coi là trận hải chiến quy mô lớn. Khi trận chiến kết thúc, Bắc
Việt lập tức ra tuyên bố, “cảm ơn chính phủ Trung Quốc đã giúp đỡ họ
giải phóng Tây Sa từ tay Nam Việt”. Điều này đồng nghĩa với việc đề
xuất với Trung Quốc yêu cầu về lãnh thổ Tây Sa. Chính phủ Trung Quốc không đếm
xỉa gì đến chuyện này, gọi trận chiến đó là “trận phản kích tự vệ”, nhấn mạnh
Tây Sa từ xa xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc. Chính nước cờ hay tuyệt diệu
này đã khiến cho Trung Quốc giành được thế chủ động trong tương lai về vấn đề
Nam Hải. Và cũng chính điểm này, sau khi Nam – Bắc Việt Nam thống nhất, đã trở
thành một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến Việt Nam dựa vào Liên Xô,
thù địch với Trung Quốc”.
Để nhấn mạnh điểm này trước khi kết thúc TLTQ còn ghi
như một lời cuối
“Nghe nói sau khi Trung Quốc thu hồi Tây Sa, Bắc Việt
là đồng chí và anh em với chúng ta khi ấy, đã gửi điện cảm ơn chính phủ Trung
Quốc: ‘Cảm
ơn anh em Trung Quốc đã thay chúng tôi thu hồi lại được quần đảo Tây Sa từ tay
quân tay sai Nam Việt!’ Chính phủ Trung Quốc đã từ chối bức “điện
cảm ơn” này, đây cũng là sự khởi đầu cho việc từ chỗ thừa nhận đến chỗ trở mặt
về chủ quyền đối với Nam Sa của Trung Quốc từ phía Việt Nam”.
Hai đoạn văn trên hé lộ cho chúng ta thấy thái độ khó
hiểu của đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó (mà người làm công tác ngoại giao không
ai khác hơn là thủ tướng Phạm Văn Đồng). Câu văn “Điều này đồng nghĩa với việc
đề xuất với Trung Quốc yêu cầu về lãnh thổ Tây Sa.” được hiểu là trước khi
Trung Quốc ra quân đánh Hoàng Sa, Hà Nội đã nói (đề xuất) với Trung Quốc rằng
Hoàng Sa là của chúng tôi đó. Cho nên sau khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Hà Nội
gởi điện cám ơn Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa từ trong tay của chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa giúp cho mình. Và Trung Quốc đã “không đếm xỉa gì đến chuyện này”,
gọi trận chiến đó là “trận phản kích tự vệ”, nhấn mạnh Tây Sa từ xa xưa đã là
lãnh thổ của Trung Quốc.
Khó hiểu ở chỗ tại sao Hà Nội không lên tiếng công
khai phản đối khi Trung Quốc tấn kích chiếm Hoàng Sa, hay ít nhất công khai hóa
bức điện cám ơn để bày tỏ trước dư luận (và pháp lý) quốc tế rằng Hoàng Sa là
của Việt Nam. Nếu đã làm vậy thế đứng của Việt Nam sẽ mạnh hơn bây giờ lúc mà
sự tranh cãi Hoàng Sa thuộc về ai đang là một quan tâm quốc tế. Dù sao bức
điện cám ơn cũng là một xảo thuật ngoại giao để hôm nay Hà Nội có thể nói “trước
sau chúng tôi vẫn xem Hoàng Sa là của nước Việt Nam”. Và sau này nếu vụ
Hoàng Sa được đưa ra trước tòa án quốc tế (TBN: điều này rất khó xẩy ra vì
Trung Quốc sẽ không thuận đưa ra khi họ yếu lý) thì bức điện “xảo thuật ngoại
giao” này sẽ là một bằng chứng có sức thuyết phục trước tòa quốc tế.
Thứ hai. TLTQ tiết lộ:“Khi Trung Quốc thu hồi Tây
Sa, binh lực của Hạm đội Nam Hải rất thiếu, đòi hỏi phải có sự chi viện từ Hạm
đội Đông Hải. Đảo Đài Loan nằm ở giữa Nam Hải và Đông Hải, việc điều động hạm
đội trước đây đều đi vòng từ ngoài khơi đảo Đài Loan, để tránh đi vào đường
nhạy cảm trong eo biển Đài Loan. Thời gian hành động của hạm đội lần này quá
gấp gáp, quy mô lại hết sức lớn, liệu có thể đi qua eo biển Đài Loan nổi không?
Nixon đến thăm Trung Quốc, đụng chạm vào chính phủ Tưởng Giới Thạch có thể nói
là thảm họa. Điều động hạm đội quy mô lớn đi qua eo biển Đài Loan vào lúc này,
Tưởng Giới Thạch sẽ có phản ứng gì? Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã liên
hệ được với Tưởng Giới Thạch thông qua kênh bí mật, Tưởng Giới Thạch cân nhắc
từ đại nghĩa dân tộc, đã để cho hạm đội được đi qua eo biển Đài Loan một cách
suôn sẻ, giành được thời cơ cho cuộc chiến.”
Sự tiết lộ này cho thấy Mao và Tưởng tranh chấp sống
chết với nhau về chủ nghĩa, về tự do, nhân quyền, nhưng khi vì quyền lợi quốc
gia (chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam là một quyền lợi quốc gia của Trung Quốc,
Mao và Tưởng đều được hưởng) Tưởng sẵn sàng giúp Mao hành động. Điều này chứng
tỏ Tưởng không bị Hội chứng “Appeasement Complex” làm tê liệt suy nghĩ của mình
chứ không có nghĩa Tưởng Giới Thạch (để cho hạm đội Đông Hải của Mao đi qua eo
biển Đài Loan) có thái độ hòa giải hòa hợp gì với Mao.
Bối cảnh quan hệ Liên xô, Trung Quốc và viễn ảnh Hoa
Kỳ phải rút quân ra khỏi Tây Thái Bình Dương sau khi ký Hiệp định Paris (1973)
đã đưa Nixon và Kissinger đến quyết định chiến lược “giao” Hoàng Sa cho
Trung Quốc chận đường tiến về Nam Thái Bình Dương của Liên Xô. Gần 20 năm sau
chiến lược này phá sản, khi Liên xô sụp đổ và Trung Quốc trở thành cừu địch
chính của Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình Dương .
Hoa Kỳ nay đã trở lại Tây Thái Bình Dương. Nhưng bài
học cũ sẽ làm cho Hoa Kỳ cân nhắc hơn trong mọi động thái. Riêng Việt Nam trước
sau vẫn là một nước nhỏ ở giữa gọng kềm tranh chấp quốc tế . “Khôn sống, mống
chết”, người xưa đã dạy. Và bài học “làm thế nào để khôn” đầy dẫy trong cách hành
xử của cha ông chúng ta.